Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 14
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và Đức
Phong
Tập 27
“Hoặc nghi niệm Phật
hà dĩ hữu như thị công đức, nhân năng niệm,
sở niệm, giai thị Thật Tướng cố. Di
Đà Yếu Giải vân: Quang tắc hoành biến thập
phương, Thọ tắc thụ cùng tam tế. Hoành thụ
giao triệt, giai Pháp Giới Thể. Cử thử Thể
tác Di Đà thân độ, diệc tức cử thử Thể
tác Di Đà danh hiệu. Thị cố Di Đà danh hiệu tức
chúng sanh Bổn Giác Lư tánh. Tŕ danh tức Thỉ Giác hợp
Bổn, Thỉ Bổn bất nhị, sanh Phật bất
nhị. Cố nhất niệm tương ứng nhất
niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật dă” (Hoặc
có kẻ nghi niệm Phật làm sao có công đức như
thế? V́ năng niệm và sở niệm đều là Thật
Tướng. Sách Di Đà Yếu Giải viết: “Quang theo
chiều ngang trọn khắp mười phương, Thọ
theo chiều dọc rốt ráo ba đời. Ngang và dọc
xen nhau thấu triệt, đều là Pháp Giới Thể.
Nêu lên cái Thể ấy để làm thân và cơi nước của
Phật Di Đà, mà cũng lấy cái Thể ấy tạo
thành danh hiệu Di Đà. V́ thế, danh hiệu Di Đà
chính là Bổn Giác Lư tánh của chúng sanh. Tŕ danh là Thỉ
Giác hợp với Bổn Giác; Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng
hai, chúng sanh và Phật chẳng hai. V́ thế, một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”). Lần trước, chúng tôi giảng tới chỗ này, nay sẽ
đọc phần tiếp theo. “Do
thượng khả kiến, Di Đà danh hiệu tức Pháp
Giới Thể, cố danh hiệu công đức bất khả
tư nghị” (Do những điều trên đây có thể
thấy danh hiệu Di Đà chính là Pháp Giới Thể, nên
danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn).
Đây là tổng kết những nghĩa thú trong phần
trước, để chúng ta nhận thức danh hiệu
Di Đà. Câu danh hiệu này rất đơn giản, đứa
trẻ ba tuổi cũng biết niệm, nhưng quả
thật, nghĩa lư trong danh hiệu, đừng nói là ông lăo
tám mươi chẳng hiểu rơ, mà đúng như trong kinh
đức Phật đă nói: “Duy
Phật dữ Phật, phương năng cứu cánh”
(chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu
rốt ráo). Đẳng Giác Bồ Tát đối với nghĩa
lư quá sâu trong câu danh hiệu này cũng giống như cách một
lớp the ngắm trăng. Công đức của danh hiệu
[A Di Đà Phật] dẫu mười phương chư Phật
trần thuyết, sát thuyết[1] đều nói chẳng cùng tận. Ngẫu
Ích đại sư nói những lời này, câu nào cũng đều
là lời thật, v́ danh hiệu là thể tánh của pháp giới,
nên danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn!
Một người suốt
đời có thể niệm một câu [Phật hiệu], công
đức bèn chẳng thể nghĩ bàn, nhưng người
ấy có được thụ dụng hay không, cũng rất
khó nói! Thật sự thụ dụng, ắt phải trọn
đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh. Văng
sanh lại phải trọn đủ [những điều
kiện] như kinh đă dạy: “Không thể do chút ít thiện căn, phước
đức, nhân duyên, mà được sanh về cơi ấy”.
Quư vị phải ghi nhớ, thiếu thiện căn, phước
đức, nhân duyên là không được! Do vậy biết:
Chúng ta muốn thật sự văng sanh Tịnh Độ
trong một đời này, quư vị phải niệm niệm
tu tập, tích lũy thiện căn, phước đức,
nhân duyên. Chúng ta cũng từng nghe nói, trong kinh này, đức
Phật cũng có nói: Khi lâm chung, mười niệm ắt
văng sanh, có phải là mâu thuẫn với câu kinh “không thể do chút ít thiện
căn, phước đức, nhân duyên, mà được
sanh về cơi ấy” hay không? Có t́nh h́nh này hay không? Tôi tin
là có nhiều người mang niềm hoài nghi này! Niềm hoài
nghi này từ xưa tới nay đều có; trong kinh điển,
luận, trước thuật, giảng giải, cổ
đại đức cũng đều giảng rất rơ
ràng, rất minh bạch. Kẻ suốt đời không tin
tôn giáo, không tin tưởng Phật pháp, nhưng lúc lâm chung,
thỉnh thoảng gặp duyên phận như vậy, gặp
gỡ một vị thiện hữu khuyên kẻ ấy niệm
Phật, khuyên kẻ ấy cầu sanh Tịnh Độ.
Trong sát-na ấy, kẻ đó sau khi nghe xong bèn tin tưởng,
tiếp nhận, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ,
nghiễm nhiên cũng có thể văng sanh. Đấy chẳng
phải là mâu thuẫn với câu kinh Di Đà “Không thể do chút ít thiện
căn, phước đức, nhân duyên, mà được
sanh về cơi ấy” hay sao? Phàm phu chúng ta cảm thấy
ở đây có vấn đề, nhưng đối với
người thật sự có công phu, nh́n vào, không chỉ chẳng
thấy có vấn đề, mà c̣n thấy là hoàn toàn
tương ứng với những điều đă được
giảng trong kinh. Do nguyên nhân nào? Suốt đời này, người
ấy chẳng tu, nhưng trong kiếp trước người
ta có tu, đời đời kiếp kiếp trong quá khứ
đă tích lũy thiện căn, phước đức,
nhân duyên, cả đời này chẳng có cơ duyên gặp gỡ
Phật pháp, gần như luống uổng một đời.
Nào ngờ khi lâm chung gặp gỡ thiện hữu cảnh
tỉnh, dẫn khởi chủng tử thiện căn và phước
đức trong A Lại Da thức của người ấy
phát khởi, người ấy bèn thành tựu. Có phải là
ngẫu nhiên hay chăng? Chẳng phải! Huệ Năng
đại sư hai mươi bốn tuổi, ở trong phương
trượng thất của Ngũ Tổ, nghe kinh chút xíu như
thế, bèn đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh, có phải là ngẫu nhiên ư? Nếu là ngẫu nhiên, trong
pháp hội của Ngũ Tổ, học tṛ đông ngần ấy,
theo Ngài nhiều năm như vậy, v́ sao chẳng khai ngộ?
Người học Phật cần phải biết: Nhân quả
thông ba đời; thiện căn, phước đức,
nhân duyên đă gieo trong đời quá khứ, tới đời
này, duyên chín muồi, người ấy bèn hưởng thụ.
Nếu đời này thiếu duyên, vẫn phải là trong đời
sau hoặc trong những đời sau nữa, nói chung khi gặp
được duyên, không nhất định là khi nào, chúng
ta chớ nên không biết điều này. Do vậy, đối
với những điều kinh điển đă nói, hay những
điều tổ sư đại đức đă dạy,
chúng ta chưa thể tin tưởng th́ có thể c̣n mang nghi
vấn, nhưng đừng nên phản đối. C̣n mang ḷng
nghi nghĩa là ǵ vậy? Chỗ này tôi không hiểu, nhưng
tôi trọn chẳng hoài nghi hay phản bác, [bởi lẽ] đức
hạnh và trí huệ của chính tôi vẫn chưa đủ.
Nỗi nghi ấy là chuyện tốt, cổ đại
đức thường nói “tiểu
nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ”,
không nghi ngờ sẽ chẳng ngộ. Nghi ở đây chẳng
phải là hoài nghi, mà là sau khi ta nghe, ta tin lời người
ấy giảng đúng là có lư, nhưng hiện thời ta
chưa đủ trí huệ và đức hạnh, c̣n phải
dụng công thêm; nói chung, sẽ có ngày ta hiểu rơ vấn
đề này. Đấy là chính xác, là tâm thái tu học tốt
đẹp trong Phật môn.
Tiếp theo đó, [sách Đại Kinh
Giải] lại nói: “Danh hiệu
tức chúng sanh chi Bổn Giác Lư tánh” (danh hiệu chính là
Bổn Giác Lư tánh của chúng sanh). Trong kinh Hoa Nghiêm, đức
Phật đă nói rất nhiều lần: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. V́ vậy,
trong Tịnh Tông nói “tự tánh Di
Đà, duy tâm Tịnh Độ”; lời ấy có lư, có
căn cứ. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”, suốt đời này
chúng ta chẳng có tưởng, kiếp trước chúng ta có
tưởng hay chăng? Kiếp trước nữa, chúng
ta có tưởng hay chăng? Quá khứ vô thỉ, vị lai
vô chung, chẳng biết chúng ta luân hồi trong lục đạo
đă trải bao nhiêu kiếp, trong thời gian dài như vậy,
chúng ta đă từng gặp Phật hay chưa? Có nghiêm túc
tu hành hay chưa? Khẳng định là có, ai nấy đều
có. V́ sao đời này không tin? Tập khí phiền năo quá nặng,
che lấp, chèn ép thiện căn, phước đức,
nhân duyên đă tu từ vô thỉ kiếp, nên vẫn y như
cũ chẳng giác! Ngày nào đó gặp nhân duyên, đột
nhiên hiểu rơ, chúng (thiện căn, phước đức)
sẽ khởi tác dụng. A Di Đà Phật chẳng phải
là vật ngoài tâm, ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có
tâm, đúng là do tự tánh biến. Quư vị phải hiểu
cảnh giới hiện tiền cũng do tự tánh biến.
Tam đồ và địa ngục có phải do tự tánh
biến hay không? Phải! Do vậy biết: Y báo và chánh báo
trang nghiêm trong mười pháp giới đều là trong một
niệm. Cớ sao bất giác? Cớ sao mê đến nỗi
này? Chẳng mảy may liên quan đến cảnh giới bên
ngoài, chẳng liên quan đến chư Phật, Bồ Tát, cũng
chẳng liên quan đến y báo và chánh báo trang nghiêm bên ngoài.
Hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân tướng
sự thật, chúng ta có thể biến địa cầu hiện
tiền thành thế giới Cực Lạc hay không? Câu trả
lời là khẳng định, chắc chắn là có thể,
chỉ cần tâm địa quư vị đạt được
thuần tịnh thuần thiện. Thuần tịnh thuần
thiện, quư vị sẽ thành A Di Đà Phật; thuần tịnh
thuần thiện, địa cầu liền biến thành thế
giới Cực Lạc. Từ kinh điển, chúng ta nghe nói
đạo lư và chân tướng sự thật này rất
nhiều, nhưng có đủ hay không? Không đủ! V́ sao
không đủ? Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chẳng
thể chuyển đổi ư niệm! Từ chỗ này, chúng
ta hiểu chính ḿnh tập khí phiền năo nặng lắm, v́
sao? Do vô lượng kiếp huân tu mà thành, từ sáng đến
tối, quư vị thấy, nghe, tiếp
xúc, hết thảy đều là huân tập phiền năo.
Do vậy,
có người đă từng hỏi Phật, Bồ Tát: “Chúng
con làm thế nào để cứu vớt xă hội này và địa
cầu?” Người ấy nói: “Phật, Bồ Tát nói một
câu: - Giảng kinh, giáo học”. Người ấy đem
chuyện này kể với tôi, tôi nói: “Đúng! Chẳng sai
tí nào!” Tôi nói: “Quư vị đă thật sự hỏi Phật,
Bồ Tát”. Suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật, kể
từ sau khi khai ngộ, Ngài bèn bắt đầu giảng
kinh, giáo học, dạy suốt một đời,
viên tịch lúc bảy mươi chín tuổi. Cổ thánh
tiên hiền Trung Quốc cũng nói kiểu ấy! “Kiến quốc, quân dân, giáo học
vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị dân
chúng, giáo học làm đầu), dạy từ nơi đâu?
Từ gia giáo. Quư vị có gia tộc, gia tộc có gia đạo,
có gia quy, có gia học, kể từ khi mẹ có mang đă bắt
đầu dạy, thai giáo mà! Con người được
dạy dỗ bèn tốt đẹp, nói chung, chúng ta phải
nhớ một câu: Nếu thực hiện tốt giáo dục,
hết thảy mọi người coi trọng giáo dục
của cổ thánh tiên hiền, mọi người trong thế
giới này sẽ biến thành A Di Đà Phật, hoàn cảnh
đều biến thành thế giới Cực Lạc, chuyện
là như vậy đó! Chưa tiếp xúc Phật pháp tức
là thiếu duyên phận, chẳng thể nói người ấy
không có thiện căn, phước đức, nhân duyên, [chỉ
có thể nói là] người ấy chưa có duyên tiếp
xúc. Chúng ta đă được tiếp xúc, đă tiếp
xúc th́ phải giác ngộ. Chẳng giác ngộ sẽ vô dụng,
cả đời này vẫn tự tư tự lợi, vẫn
tạo tiếng tăm, lợi dưỡng, vẫn tạo
nghiệp tam đồ lục đạo. Người ấy
chẳng thể ĺa bỏ lục đạo và tam đồ
trong tự tánh, ĺa bỏ chẳng được! Đó là
mê, mê rất nặng. Nếu ngày nào đó, người ấy
giác ngộ, hễ chuyển biến sẽ biến thành Cực
Lạc, sẽ biến thành Phật Di Đà. Phật pháp là pháp
thanh tịnh, pháp b́nh đẳng, chẳng có chúng sanh nào là
ngoại lệ, nhất định phải hiểu đạo
lư này. Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc
sư đă giảng hết sức rơ ràng; bài luận
văn ấy chẳng dài, chỉ là một cuốn sách nhỏ
mỏng manh, nhưng hết thảy những điều được
nói trong ấy là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ,
nói tới duyên khởi của vũ trụ, duyên do của vạn
pháp, bản thân chúng ta do đâu mà có. Thật sự khó có, quả
thật chẳng dễ dàng, Ngài đă giảng rơ ràng, minh bạch.
Thật sự hiểu
rơ ràng, hiểu minh bạch. Tiếp theo đó, sách nói: “Khởi tâm niệm Phật thị
vi Thỉ Giác” (Khởi tâm niệm Phật là Thỉ Giác),
chúng ta khởi lên ư niệm, niệm A Di Đà Phật, quư vị
bắt đầu giác ngộ; nhưng chính ḿnh chẳng cảm
thấy bản thân ta giác ngộ, do nguyên nhân nào? Quư vị
niệm Phật chưa đủ công phu. Nếu quư vị
có thể khăng khăng một mực niệm một câu
Phật hiệu này, khi niệm bèn buông xuống vạn
duyên, v́ sao? Chúng quấy nhiễu quư vị. V́ thế, trong
kinh giáo, tổ sư đại đức dạy chúng ta nhất
tâm niệm Phật, [làm như vậy] sẽ hữu hiệu!
Nhất tâm là trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu,
trừ một câu Phật hiệu ra, thứ ǵ cũng đều
chẳng có, lúc đó mới gọi là “nhất tâm”. Nhất
tâm là tâm chân thành, nhất niệm tương ứng nhất
niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật. Quư vị có thể giữ được
sự chân thành, kinh Di Đà nói quư vị có thể giữ được
[sự chân thành ấy] trong một ngày, bậc thượng
căn sẽ khai ngộ, đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, đó là bậc thượng căn, một
ngày bèn thành tựu. Kinh nói rất hay, kẻ căn tánh thấp
nhất, bảy ngày cũng có thể thành tựu. Có thể
chấp tŕ tới bảy ngày, nhất tâm niệm Phật,
trong tâm thật sự chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp,
chẳng gián đoạn, bảy ngày thành tựu. V́ thế,
mục tiêu của Tinh Tấn Phật Thất là ở chỗ
này. Tôi chưa từng đả Tinh Tấn Phật Thất,
tôi cũng chẳng dám làm. Xưa kia, tôi ở Đài Trung thân
cận thầy Lư, thầy Lư bảo tôi cụ đă từng
mở Tinh Tấn Phật Thất hai lần, làm Chủ Thất,
số người tham dự ước chừng chỉ có
mười mấy người. Sau lần Phật Thất
ấy, đă xảy ra chuyện. Nói thật ra, nếu quư vị
chẳng dụng công, oán thân trái chủ sẽ chẳng t́m đến,
đến khi đó (lúc tham gia Tinh Tấn Phật Thất),
họ t́m quư vị tính sổ. Quư vị tham gia Tinh Tấn Phật
Thất, thật sự dụng công mong văng sanh, họ sẽ
đặc biệt chú ư; khi ấy, họ sẽ đến
nhiễu loạn. Họ đến nhiễu loạn, quư vị
bèn bị ma dựa. Do vậy, hai lần thầy Lư tổ
chức [Tinh Tấn] Phật Thất đều gặp phải
chuyện này, có học tṛ bị ma dựa. Bị ma dựa
là một vấn đề nghiêm trọng! Người ta tham
gia Phật Thất đang là người b́nh thường,
niệm Phật vài ngày liền biến thành bệnh thần
kinh, quư vị phải chịu trách nhiệm. Thầy Lư rất
khó có, tốn thời gian hơn nửa năm để chữa
cho người ấy khôi phục b́nh thường. V́ thế,
sau đấy chẳng dám tổ chức [Tinh Tấn Phật
Thất] nữa. Đây là nói tinh tấn tu hành ắt phải
trọn đủ thiện căn, phước đức,
và nhân duyên. Quư vị chẳng có thiện căn và phước
đức, chỉ hoài nghi một chút, hoặc có đôi chút
ư niệm tự tư tự lợi đều không
được, đó là quư vị chưa buông xuống sạch
sành sanh. Thật sự buông xuống triệt để th́
mới có thể tham gia phương pháp tu hành ấy. V́ thế,
thầy bảo tôi: Sau đó, thầy không dám tiến hành, và
cũng nhắc nhở tôi [chớ làm]. Duyên của cụ thù
thắng hơn tôi, cụ được thân cận lăo pháp
sư Ấn Quang, Ngài là nhất đại tổ sư, duyên
của chúng tôi thua cụ, mà cụ tổ chức [Tinh Tấn
Phật Thất] c̣n gặp rắc rối, huống ǵ chúng
tôi! Càng về sau, đời sau kém hơn đời trước,
thật đấy, chẳng giả đâu!
Hiện nay, chúng ta dùng phương pháp
ǵ? Nói thật ra, ổn thỏa, thích đáng nhất, an toàn
nhất, mà cũng có hiệu quả nhất là giảng kinh,
giáo học, chuyện này thuộc loại tiệm tu, chắc
chắn chẳng có khuyết điểm. Ở nơi đây,
sang năm học viện của chúng ta đă [được
thành lập] tṛn mười năm. Thiên Học Kư [trong sách
Lễ Kư] đă nói rất hay, pháp thế gian và xuất thế
gian đều giống nhau, “thất
niên thiếu thành, cửu niên đại thành” (bảy năm
thành tựu nhỏ, chín năm thành tựu lớn), chúng ta có
thành tựu hay không? Cổ đại đức đă nói: “Sư phụ lănh tấn môn, tu
hành tại cá nhân” (sư phụ hướng dẫn nhập
môn, cá nhân phải tự tu hành), đặc biệt là trong
thời đại hiện tại này, xă hội đề
xướng dân chủ, tự do, cởi mở. Trong xă hội
hiện tại, cha mẹ chẳng thể kiềm chế
con cái, thầy chẳng thể quản tṛ, v́ sao? Có nhân quyền!
Khác hẳn xă hội trong quá khứ! Hiện thời, chúng
ta chỉ có thể khuyên nhủ, đúng là tu hành và thành tựu
đều do chính mỗi cá nhân [tự nỗ lực]. Kinh giáo
do Phật nói, chú giải do Bồ Tát soạn, Phật, Bồ
Tát chốn chốn nhắc nhở chúng ta, nếu chúng ta y
giáo phụng hành, chắc chắn có thành tựu. Thành tựu
cạn hay sâu, lớn hay nhỏ, mấu chốt chẳng do
thời gian quư vị học dài hay ngắn, chẳng phải
do quư vị vận dụng công phu cạn hay sâu, mà do quư vị
buông xuống nhiều hay ít. Thuở trước, khi tôi đang
học tập, Chương Gia đại sư đă bảo
tôi lời ấy, trải qua năm mươi chín năm học
tập, kiểm nghiệm, chứng tỏ lời ấy chính
xác, quư vị buông xuống nhiều hay ít! Quư vị chẳng
thể buông xuống, dẫu tu ba trăm năm vẫn là phàm
phu, có thể nâng cao công phu lên một bước hay không? Chẳng
thể! Nâng lên cao một bước cũng chẳng thể!
Giống như bước lên cầu thang, quư vị phải
buông nấc thứ nhất xuống th́ mới có thể lên
được nấc thứ hai, lại buông nấc thứ
hai xuống th́ mới có thể lên được nấc
thứ ba, buông xuống triệt để! Quư vị chỉ
đặt một chân lên nấc trên, c̣n chân kia chẳng chịu
buông bỏ nấc dưới, sẽ vĩnh viễn chẳng
có cách nào lên cao được! Do vậy, dù ba trăm năm,
quư vị vẫn chẳng có cách nào lên cao hơn một nấc
được! Buông xuống trọng yếu lắm! V́ sao
chẳng buông xuống?
Tôi khuyên các đồng
học, tối thiểu [đă khuyên như vậy] cũng
phải mười mấy năm, hai mươi năm, chúng
ta nhất định phải buông tự tư tự lợi
xuống! Khởi tâm động niệm, nói cách khác, chúng ta
sống ở thế gian là v́ điều ǵ? Tôi thưa với
mọi người, tôi v́ hai chuyện, một là nhằm giữ
cho chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật được trường
tồn, hai là văng sanh Tịnh Độ, thân cận A Di
Đà Phật. Tôi hiểu rơ, minh bạch Phật pháp, suốt
đời này làm hai chuyện ấy, sống một ngày bèn
làm một ngày. Đức Thế Tôn đă nêu gương
cho chúng ta. Đức Thế Tôn trước khi diệt
độ, hễ c̣n một hơi thở, Ngài c̣n giảng
kinh, thuyết pháp. Quư vị thấy cuối cùng Ngài dạy
chúng ta Tứ Y Pháp. Tôn giả A Nan hướng về lăo
nhân gia thỉnh giáo: “Đức Thế Tôn tại thế,
chúng con nương theo Phật là thầy. Đức Thế
Tôn nhập diệt, chúng con nên nương theo ai làm thầy?
Đức Thế Tôn tại thế, hết thảy mọi
người đều nương theo Phật để cộng
trụ; Phật nhập diệt, chúng con nương vào ai để
cộng trụ?” Đức Thế Tôn nói, đó là giáo huấn
của Ngài đă lưu lại, đức Thế Tôn chẳng
tại thế, chúng ta “dĩ giới
vi sư” (lấy giới làm thầy), đức Phật
dạy như vậy. “Dĩ khổ
vi sư” (lấy khổ làm thầy), Ngài dạy hai câu ấy.
Nương vào ai để trụ? Nương vào Tứ Niệm
Xứ để trụ, sẽ chẳng khác ǵ đức Phật
tại thế; nương vào Lục Ḥa Kính để trụ.
Chúng ta nương vào Lục Ḥa Kính và Tứ Niệm Xứ,
sẽ chẳng khác ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn tại thế.
Chúng ta tŕ giới, chẳng sợ khổ, giống như vẫn
ở cùng Thích Ca Mâu Ni Phật. Hơi thở chưa dứt,
đức Phật vẫn dạy bảo đạo chúng
ta, từ bi đến tột cùng! V́ vậy, chẳng buông
xuống tự tư tự lợi, sẽ chẳng có cách nào
nhập môn, cách trở Phật môn quá ư xa xôi! Sửa đổi
tập khí ấy bằng cách nào? Thay đổi ư niệm!
Chẳng có cách nào diệt ư niệm; đó là chuyện của
hàng Tiểu Thừa làm. Thay đổi ư niệm, thay [ư niệm
tự tư tự lợi bằng ư niệm] lợi ích
người khác, lợi ích chúng sanh, lợi ích quốc gia,
lợi ích xă hội, lợi ích toàn bộ thế giới, quư
vị nghĩ tưởng những điều ấy. Ta
dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ, giúp đỡ
chính ḿnh, giúp đỡ xă hội, giúp đỡ quốc gia,
giúp đỡ thế giới này? Phương pháp tốt nhất
là y giáo phụng hành, học Phật. Quư vị hăy suy
nghĩ: Chứng đắc Phật quả, nguyện vọng
của quư vị sẽ được thực hiện viên
măn. Chúng tôi lại nói rơ hơn một chút, đối với
chính ḿnh, thân tâm khỏe mạnh, mọi người đều
mong muốn chuyện này, gia đ́nh ḥa thuận. Chúng ta ở
trong đạo tràng này, đạo tràng ḥa thuận. Trong đạo
tràng đều là người một nhà, chính ḿnh khiêm ty,
cung kính, quan tâm, chiếu cố người khác, hỗ trợ
hợp tác, gia đ́nh ấy sẽ hưng vượng và
vui vẻ lắm! Gia đ́nh hạnh phúc, sự nghiệp
thuận lợi, xă hội an ḥa, quốc thái dân an, thế
giới ḥa hợp, đều đạt được, chẳng
phải là không thể thực hiện được. Hăy làm
từ chính ḿnh, thay đổi từ tâm thái của chính
ḿnh. Buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông
hưởng thụ ngũ dục lục trần xuống,
buông tham, sân, si, mạn xuống, tâm định rồi! Tâm
định sẽ chẳng bị cảnh giới bên ngoài
xoay chuyển, cũng có thể nói là cảnh giới bên ngoài
chẳng thể ảnh hưởng quư vị, tới khi ấy,
quư vị có thể ảnh hưởng thế giới bên
ngoài. Giống như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Nhược năng chuyển vật,
tắc đồng Như Lai” (Nếu có thể chuyển
vật, ắt sẽ giống Như Lai), quư vị chẳng
bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, sẽ có thể
chuyển biến cảnh giới bên ngoài.
Do vậy, quư vị thấy
thánh nhân thế gian và xuất thế gian giải quyết vấn
đề của chính ḿnh, giải quyết vấn đề
gia đ́nh, đoàn thể, quốc gia, thế giới, đều
dùng giáo học. Giáo học làm đầu, đó là chân lư. Quư
vị có thể thật sự tin tưởng, thật sự
làm, quư vị có đại trí huệ, sẽ thật sự
giải quyết vấn đề. Nếu quư vị không
tin, mà nghĩ c̣n có biện pháp tốt đẹp hơn, làm
theo cách ấy, đến khi đạt kết quả, đem
so sánh với cách làm này, sẽ liền hiểu rơ. Trung Quốc
từ xưa tới nay, măi cho đến thời đại
Măn Thanh, đều tuân theo giáo huấn của cổ thánh
tiên hiền, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ, hiện
thời b́nh thiên hạ được gọi là thế giới
ḥa hài, không ǵ chẳng tuân thủ “giáo học làm đầu”. Gia đ́nh thực hiện
tốt giáo dục trong gia đ́nh, xă hội cũng thực
hiện tốt giáo dục, quốc gia cũng thực hiện
tốt giáo dục, cả thế giới ḥa hài. Nếu chẳng
thực hiện tốt giáo dục, chẳng có cách nào cả!
Xă hội hiện thời loạn lạc như thế, tai
nạn lắm như vậy, nguyên nhân thật sự là ǵ?
Chúng ta vứt bỏ giáo dục, nên mới sanh ra phiền
phức. Chư vị nhất định phải biết
giáo dục [như vừa nói đó] chính là giáo dục luân lư.
Thật sự hiểu rơ giáo dục luân lư, con người sẽ
yêu thương nhau, con người biết tự yêu thương
ḿnh. Luân lư là nói về quan hệ; quư vị hiểu rơ ràng, minh
bạch các mối quan hệ, sẽ yêu thương người
khác. Người khác là cha mẹ của ta, lẽ nào ta chẳng
yêu thương họ? Hiểu rơ quan hệ, người khác
là con cái của ta, lẽ nào chẳng yêu thương, quan tâm
họ? Hiểu thông suốt Đại Thừa Phật pháp,
quư vị mới thật sự giác ngộ, giống như
trong kinh đức Phật đă nói: “Hết thảy người nam là cha ta, hết thảy
người nữ là mẹ ta”. Đúng không? Đúng vậy,
v́ sao là đúng? Đời đời kiếp kiếp, nhân
quả ba đời. Trong hiện tại, nhờ thuật
thôi miên, đă xảy ra những chuyện như thế này:
Trong quá khứ, người kia là mẹ của kẻ ấy,
nay biến thành con kẻ ấy, [người đă chết]
quay trở lại. Gần đây nhất, tôi c̣n gặp được
một người, cũng là một đồng tu học
Phật, hai vợ chồng ông ta đều biết. Con gái ông
ta kết hôn, sanh ra một đứa cháu gái chính là mẹ ông
ta tái sanh, quư vị thấy: Bà nội cô ta do vô cùng yêu thích đứa
cháu gái ấy nên đầu thai trở lại, làm con của
cô ta. Quan hệ giữa người và người là như
vậy! Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta
luôn có những mối quan hệ mật thiết như vậy,
nhưng hễ chuyển thế bèn quên mất. Nếu quư vị
có trí nhớ, những thứ trong A Lại Da đều được
khôi phục, quư vị đều có thể nhớ kỹ, sẽ
biết tất cả hết thảy mọi người có
quan hệ với quư vị như thế nào. Lời Phật
giảng là chân thật, chẳng giả. Không chỉ hết
thảy mọi người có quan hệ với ta như thế,
mà tất cả động vật và chúng ta cũng có mối
quan hệ như vậy. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhân tử vi dương,
dương tử vi nhân” (Người chết thành dê, dê
chết thành người). Đường nào trong lục
đạo chúng ta cũng đă từng trải qua, thời
gian lại rất dài, lại c̣n trải qua rất nhiều
lần, chẳng phải là một hai lần, quan hệ mật
thiết!
C̣n nữa, theo luân lư được
nói trong nhà Phật, cây cối, hoa, cỏ có quan hệ với
chúng ta, núi, sông, đại địa có quan hệ với
chúng ta, v́ sao? Do tâm tánh của chúng ta sanh ra, do A Lại Da của
chúng ta biến. Quan hệ với chúng ta như thế nào? Rất
mật thiết, nhất thể, có cùng một tự tánh
thanh tịnh viên minh thể. V́ vậy, luân lư được
giảng trong nhà Phật mới thật sự là giảng đến
rốt ráo viên măn, chẳng có một thứ nào là ngoại lệ.
Nếu không hiểu thông suốt mối quan hệ ấy th́
kinh Phật thường dùng một tỷ dụ để
giảng giải rất hay! Tỷ dụ được dùng
nhiều nhất để nói là “nằm
mộng”. “Mộng, huyễn,
bọt, bóng”, tỷ dụ chủ yếu là nằm mộng,
c̣n huyễn, bọt nước, h́nh bóng là những ví dụ
kèm thêm. Chúng ta đều có kinh nghiệm nằm mộng; quư
vị hăy nhớ, khi nào tỉnh giấc mộng, hăy suy nghĩ:
Người, vật, cây cối, hoa cỏ, núi, sông, đại
địa, hư không trong giấc mộng ấy do đâu
mà có? Người hiện thời bảo chúng do tâm ư thức
biến hiện, nói cũng khá lắm, ư thức là thức
thứ sáu. Thức thứ sáu có thể phân biệt, c̣n chủng
tử th́ sao? Chủng tử ở trong A Lại Da thức.
Quả thật hoàn toàn do chính ḿnh biến hiện, toàn bộ
cảnh giới trong mộng đều do chính ḿnh biến
hiện. Đối với những cảnh giới trước
mắt, chúng ta học qua Duy Thức sẽ biết, toàn là Hiện
Lượng của A Lại Da, là Tướng Phần và Hiện
Lượng của A Lại Da. A Lại Da do đâu mà có? A
Lại Da biến hiện từ chân tánh. Sau khi mê chân tánh, A
Lại Da bèn xuất hiện. Ba tế tướng (nghiệp
tướng, cảnh giới tướng và chuyển tướng)
của A Lại Da biến hiện ra cái được Phật
pháp gọi là “y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới”.
Lại mở rộng ra, sẽ giống
như phẩm Hoa Tạng Thế Giới và Thế Giới
Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm, chẳng có ngằn mé. Tự
tánh không ǵ lớn có thể lọt ra ngoài, không ǵ nhỏ chẳng
gồm trong, chẳng có ngằn mé, nhất thể! Tuy vậy,
chúng ta chẳng có cách nào chứng đắc, do nguyên nhân nào?
Phiền năo tập khí chẳng thể buông xuống được,
quư vị sẽ chẳng thể chứng đắc, nhưng
chúng ta tiếp nhận sự hun đúc của kinh giáo, hun đúc
trong một thời gian dài, cũng hiểu rơ, minh bạch.
Sự minh bạch ấy được gọi là “giải
ngộ”. Ngộ có hai thứ:
- Một là minh bạch, tức là giải
ngộ, nghe đức Phật nói [bèn hiểu rơ] chẳng
sai.
- Loại thứ hai là chứng ngộ.
Chứng ngộ th́ mới có thụ dụng,
v́ sao? Hoàn toàn là cảnh giới Hiện Lượng[2]
của chính ḿnh. Giải ngộ chẳng phải vậy! Giải
ngộ chẳng phải là cảnh giới Hiện Lượng,
mà là cảnh giới Tỷ Lượng[3],
là cảnh giới nương vào Thánh Ngôn Lượng[4]
mà khởi. V́ thế, niệm Phật là giác ngộ, là Thỉ
Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác là một, không hai. Thỉ Giác
của chúng ta trong hiện thời chính là giải ngộ,
khi Bổn Giác hiện tiền sẽ là chứng ngộ. Quư
vị thấy “Thỉ Giác hợp
Bổn”, dùng phương pháp niệm Phật này để
triệt ngộ tự tánh, có cùng một cảnh giới với
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh trong
Tông Môn, chỉ là dùng phương pháp khác nhau. Một câu Phật
hiệu niệm tới rốt ráo, niệm đạt đến
Lư nhất tâm bất loạn, sẽ là đại triệt
đại ngộ; khi ấy, cơi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật Như Lai sẽ hiện tiền. Điều
khẩn yếu là chính ḿnh phải thật sự làm! “Thật
sự làm” là chính ḿnh thật sự buông xuống, thật sự
làm chuyện ấy, coi nó là một đại sự phải
thực hiện trong đời này th́ mới có thể thực
hiện được trong một đời.
“Kim sở
niệm chi Phật, chánh ngă Bổn Giác” (nay vị Phật
được niệm chính là Bổn Giác của ta), tức
là tự tánh thanh tịnh viên minh thể. “Cố vân tŕ danh tức thị Thỉ Giác hợp Bổn”
(nên nói tŕ danh chính là Thỉ Giác hợp với
Bổn Giác). Cũng chớ nên quên tiêu chuẩn tŕ danh do Đại
Thế Chí Bồ Tát đă giảng: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương
kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối
tiếp), phải niệm như vậy th́ mới
được. Nhiếp trọn sáu căn là buông xuống
vạn duyên, niệm của quư vị sẽ là tịnh niệm.
Nếu quư vị chẳng thể nhiếp trọn sáu căn,
mắt sẽ chạy theo sắc tướng bên ngoài, tai sẽ
ruổi theo thanh trần để nghe ngóng, tâm quư vị
luôn hướng ra ngoài, đều đặt nơi cảnh
giới lục trần, cũng tức là tâm quư vị tán loạn.
Nhiếp trọn sáu căn, tâm bèn định; mắt ta chẳng
thấy sắc, tai chẳng nghe tiếng, định rồi.
Học theo Quán Thế Âm Bồ Tát xoay cái Nghe để nghe
nơi tự tánh, tai vốn nghe bên ngoài, [nay] chẳng nghe bên
ngoài nữa, mà nghe bên trong, bên trong là ǵ? Bên trong là tự tánh,
quay đầu. Lục căn đều quay đầu, chẳng
duyên theo bên ngoài, chẳng duyên theo cảnh giới lục trần
bên ngoài, đấy là tự tánh vốn định. Hễ
quay đầu th́ tự tánh vốn định, kinh Lăng
Nghiêm [gọi điều ấy] là Thủ Lăng Nghiêm Đại
Định. Tâm ấy đúng là tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng. Trong tịnh niệm ấy
có một câu Phật hiệu, cho nên tịnh niệm ấy
dễ tu. Nếu trong tịnh niệm ấy thứ ǵ
cũng chẳng có, sẽ chẳng dễ dàng, phàm phu chúng ta
không tu được! Phàm phu chúng ta có nhất niệm, nhất
niệm là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật tương ứng
với Tánh Đức của tự tánh; A Di Đà Phật
là đức hiệu của Tánh Đức. Niệm tới
khi tự tánh Bát Nhă hiện tiền sẽ gọi là “hoát nhiên
đại ngộ”, Lư nhất tâm bất loạn, Đại
Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta [như vậy]. Nay chúng
ta thực hiện th́ phải nhớ: Hăy thực hiện ở
chỗ sáu căn tạm thời đừng khởi tác dụng
nào khác, xa ĺa cảnh giới lục trần, t́m một nơi
thanh tịnh để thâu gom cái tâm! Dùng hoàn cảnh để
giúp đỡ chính ḿnh. Chẳng hoài nghi pháp môn này, chẳng
hoài nghi Tịnh Độ, chẳng hoài nghi A Di Đà Phật,
chẳng hoài nghi vị thầy trong đạo tràng chúng ta đang
tu học, chẳng hoài nghi đồng học, quư vị sẽ
chẳng bị chướng ngại! Một câu A Di Đà Phật
này quư vị cứ niệm niệm tiếp nối, tiếp
nối là chẳng gián đoạn, công phu đắc lực
sẽ thành tựu. Ở đây, cụ Niệm Tổ giảng
là “thị cố niệm niệm
tương ứng, nhi niệm niệm tức Phật, thị
hiển tŕ danh công đức bất khả tư nghị”
(v́ thế, niệm niệm tương ứng, nhưng niệm
niệm chính là Phật, tỏ rơ công đức tŕ danh chẳng
thể nghĩ bàn).
“Hựu
cứ Mật điển” (lại nữa,
dựa trên kinh điển của Mật Tông), đây là điều
được nói trong Mật Tông, “lục tự hồng danh trung nhất cá A tự,
công đức dĩ thị vô lượng. Nhật Hưng
Giáo đại sư viết: ‘Tự A tự xuất nhất
thiết đà-la-ni, tự nhất thiết đà-la-ni sanh nhất
thiết Phật” (công đức của một chữ
A trong sáu chữ hồng danh đă là vô lượng. Hưng
Giáo đại sư[5] của Nhật Bản nói: “Từ chữ A sanh ra hết
thảy đà-la-ni, từ hết thảy đà-la-ni sanh ra hết
thảy Phật”). Đấy là điều được
nói trong kinh điển Mật Tông. “A” là chữ cái thứ nhất
trong tiếng Phạn, tất cả văn tự (v́ tiếng
Phạn dùng mẫu tự để ghép lại) đều
từ chữ này diễn biến, nó là chữ cái thứ nhất.
Giống như tiếng Anh dùng chữ A làm mẫu tự thứ
nhất, A [trong tiếng Anh] cũng được phát âm là
A [như trong tiếng Quan Thoại]. “Tự A tự xuất nhất thiết đà-la-ni”
(từ chữ A sanh ra hết thảy đà-la-ni), Đà-la-ni
là chú, quả thật trong hết thảy các bài chú đều
có âm A này, nó chứa được vô lượng vô biên nghĩa.
Tùy thuộc nó nằm trong câu chú nào, mà giảng như thế
nào, nhưng thảy đều tương ứng với tự
tánh. “Nhất thiết đà-la-ni
sanh nhất thiết Phật” (hết thảy đà-la-ni
sanh ra hết thảy Phật), Đà-la-ni (Dhāranī) là tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tổng
Tŕ, [nghĩa là] “gồm chung hết thảy các pháp, nắm giữ
hết thảy các nghĩa”. [Có những] chú chẳng dài, nhưng
chú Lăng Nghiêm rất dài, có tới hai ngàn chữ.
“A Di
Đà Phật” cũng là một chú ngữ, nhưng
rất ngắn, [chỉ gồm] một câu là A Di Đà Phật.
Bất luận bộ kinh điển nào, bất luận câu
chú ngữ nào đều là một pháp môn, nhà Phật nói “tám vạn bốn ngàn pháp môn”;
thật ra, không phải chỉ có vậy! Trọn đừng
nên hiểu tám vạn bốn ngàn là con số, phải nói như
thế nào? Phải hiểu [từ ngữ này biểu thị]
sự đại viên măn. Quư vị thấy trong Tứ Hoằng
Thệ Nguyện có câu: “Pháp môn
vô lượng thệ nguyện học”, chẳng nói tám
vạn bốn ngàn, [mà là] pháp môn vô lượng thệ nguyện
học! Tám vạn bốn ngàn pháp môn mở rộng thành vô
lượng pháp môn, vô lượng pháp môn quy nạp lại
thành tám vạn bốn ngàn pháp môn. Do vậy, tám vạn bốn
ngàn và vô lượng có cùng một ư nghĩa, phải biết
điều này! Trong Tịnh Độ Tông, lại quy nạp,
quy nạp tới cuối cùng, dùng “bảy” làm con số viên
măn. “Bảy” có ư nghĩa ǵ? “Bảy” là Đông, Nam, Tây, Bắc,
phía trên, phía dưới, gọi là “lục phương”, c̣n
có chính giữa [thêm vào đó thành “bảy phương”], đó
là viên măn. V́ thế, nó tượng trưng sự viên măn. “Thập”
xét theo con số, từ một đến mười là viên
măn, đều nhằm biểu thị sự đại viên
măn, đừng hiểu là con số; nếu không, quư vị sẽ
thấy sai!
Kinh Hoa Nghiêm nói “một chính là hết thảy, hết thảy chính là
một”, lời này nói rất hay! Nói “một” là nói tới
tự tánh, hết thảy các pháp đều do tự tánh
sanh ra, hiện ra, biến ra. Trên thực tế, cái biến
là A Lại Da, nhưng A Lại Da từ tự tánh thanh tịnh
viên minh thể biến hiện; cho nên là một, không hai. Tự
tánh là chân tâm, A Lại Da là vọng tâm, chân vọng chẳng
hai. Bất luận là xét theo Lư, hay xét theo Sự, Phật
pháp luôn dạy chúng ta, trọn pháp giới hư không giới
hết thảy các pháp và chính ḿnh là một Thể. Thật
sự nhận thức, thật sự chứng đắc
trong tự tánh có vô lượng trí huệ, vô lượng từ
bi, vô lượng đức hạnh tự nhiên lưu lộ.
Trí huệ, đức hạnh, từ bi lưu xuất, trong
cuộc sống, công việc, đăi người, tiếp vật,
quư vị dùng ǵ? Dùng tâm từ bi, dùng trí huệ, dùng đức
hạnh, vậy th́ quư vị là Phật, Bồ Tát, là đại
thánh, đại hiền, giúp đỡ hết thảy chúng
sanh quay đầu, giúp đỡ hết thảy chúng sanh tu
hành chứng quả.
Chúng ta đọc câu văn
kế tiếp: “Hựu A tự
chân ngôn, thập phương Phật tâm, chư Phật Pháp
Thân, đồng sở gia tŕ” (Lại nữa, chân ngôn chữ
A là tâm của mười phương chư Phật, Pháp
Thân của chư Phật cùng gia tŕ). Ở đây, cụ Hoàng
dùng chữ “hựu” v́ những
điều này đều là lời giảng của Hưng
Giáo đại sư người Nhật. Chữ A này là tâm
của mười phương chư Phật, là tâm chú. Chữ
A là Phật tâm, tâm chú, chúng ta thường nói [chữ A ấy]
là “nguyên âm” của vũ trụ, nguyên là nguyên thủy, [“nguyên
âm”] tức là âm thanh nguyên thủy, nguyên âm của vũ trụ
là thanh âm A này! Tất cả hết thảy các âm thanh đều
từ âm này biến hiện; v́ thế, nó là mẫu âm thứ
nhất. Mẫu âm trong hết thảy các âm thanh được
biến hiện từ nó; v́ thế, nó là Phật tâm. Đă
là Phật tâm, đương nhiên nó được hết
thảy chư Phật gia tŕ, Pháp Thân Phật gia tŕ.
Lại nói: “Tỳ
Lô Xá Na, dĩ thử A tự danh vi Bí Tạng” (Tỳ Lô
Xá Na Phật gọi chữ A này là Tạng Kín Nhiệm), “Bí” (祕) ở đây chẳng phải là bí mật! Trong Phật
pháp chẳng có bí mật, chuyện bí mật chẳng thể
nói với người khác mới gọi là “bí mật”, c̣n
trong Phật pháp, “bí” là thâm mật
(sâu xa, kín nhiệm). Lư quá sâu, Sự quá rắc rối, vô
lượng nhân duyên thành tựu một pháp. Chúng ta nói đơn
giản nhất th́ trong sinh vật, [đơn giản nhất]
là một tế bào, nhưng nói theo Phật pháp, tế bào cũng
do vô lượng nhân duyên mới có thể sanh khởi. V́ thế,
thường dùng chữ Bí Tạng. Dùng từ ngữ này để
hiển thị ư nghĩa: Những Lư được bao hàm trong
ấy quá sâu, duyên quá phức tạp, dùng chữ A này để
biểu thị điều ấy.
“Hựu
tam thân duy thuyết A tự nhất pháp” (lại nữa, ba thân chỉ nói một pháp chữ A),
“tam thân” là Như Lai quả địa,
tức Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Hóa Thân, đó là tam thân. Pháp
Thân là Lư, Báo Thân và Ứng Hóa Thân đều là sự tướng.
Báo Thân là Tự Thụ Dụng, có Tự Thụ Dụng và
Tha Thụ Dụng. Ứng Hóa Thân hoàn toàn là Tha Thụ Dụng,
trong ấy chẳng có Tự Thụ Dụng. Tự Thụ
Dụng Báo Thân ở trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm; đồng
thời, dùng thân này để dạy những vị vừa
mới chứng Pháp Thân Phật. V́ quư vị chỉ cần
buông vô minh xuống, buông vô thỉ vô minh xuống th́ cũng
là như chúng tôi thường nói: “Đối với hết
thảy các pháp, không khởi tâm, không động niệm”; đấy
là buông xuống vô minh. Vẫn c̣n khởi tâm động niệm
th́ không được, quư vị chưa buông xuống. Thật
sự chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, sẽ
kiến tánh. Kiến tánh, Báo Thân sẽ hiện tiền. Đối
với Báo Thân, trong kinh, đức Phật đă dạy chúng
ta: “Thân hữu vô lượng
tướng, tướng hữu vô lượng hảo”
(thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng
hảo), bản thân quư vị biết, hàng Bồ Tát chứng
đắc Báo Thân đều biết, họ thuộc về
cảnh giới ngang nhau. V́ sao hảo? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức
Thế Tôn dạy: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Khi quư vị chứng đắc Báo Thân, hết
thảy trí huệ, đức năng, tướng hảo trong
tự tánh đều hiện ra toàn bộ. Ba thứ ấy
là ǵ vậy? Chính là nửa phần trước của tựa
đề bản kinh này, Đại Thừa là trí huệ, Vô
Lượng Thọ là đức, Trang Nghiêm là tướng.
Quư vị chứng đắc các điều kiện, tâm quư
vị thật sự đạt được Thanh Tịnh,
đạt được B́nh Đẳng, Giác là khai ngộ,
toàn bộ đều ở trong tựa đề bản
kinh! Tam thân cũng chỉ dùng một chữ A; trong một
chữ này, thảy đều trọn đủ, [đó là]
“A tự nhất pháp”.
“Chư kinh quảng tán
thử pháp công đức, văn danh xúc nhĩ, chúng tội
băng tiêu, xướng thanh kiến tự, vạn đức
vân tập” (Các kinh khen ngợi rộng răi công đức
của pháp này, danh hiệu nghe lọt vào tai, các tội tiêu
tan, xướng âm thanh, thấy mặt chữ, muôn đức
nhóm về như mây), hai câu này nói rất hay. “Thiển quán đản tín, trực
du Tịnh Độ, thâm tu viên trí, hiện chứng Phật
đạo” (kẻ thấy biết nông cạn, chỉ
tin tưởng, bèn về thẳng cơi Tịnh; người
trí tu sâu trí vẹn, chứng Phật đạo trong hiện
đời). Kẻ công phu nông cạn, nhưng chân tín, chân
phát nguyện, cầu sanh Tịnh Độ, sanh về cơi
Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc;
đấy là kẻ công đức nông cạn. Người
sâu xa, trí huệ viên măn xuất hiện, dùng tựa đề
bản kinh này để nói sẽ là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đạt được
thanh tịnh, b́nh đẳng. Trong ấy cũng có cạn
hay sâu khác nhau; v́ thế, giác có tiểu ngộ, có đại
ngộ, có đại triệt đại ngộ khác nhau, v́
sao? Buông xuống nhiều hay ít khác nhau. Buông chấp trước
xuống, nhưng chẳng buông phân biệt xuống, có giác
hay không? Có, giác một ít, là A La Hán. Ít hơn A La Hán là Tu
Đà Hoàn, nhưng đều phải buông chấp trước
xuống, buông xuống nhiều hay ít khác nhau. Thật sự
phải luyện, luyện sao cho hết thảy chấp trước
đều chẳng cần tới, khi chúng ta sanh sang Tây
Phương Tịnh Độ sẽ sanh vào cơi
Phương Tiện Hữu Dư, không thuộc cơi Phàm Thánh
Đồng Cư. Nếu phân biệt cũng buông xuống,
không chỉ chẳng chấp trước, mà ư niệm phân biệt
cũng chẳng sanh, khi sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, Phật đến tiếp dẫn, Phật
quang chiếu gội, nâng cao công phu, gia tŕ quư vị sanh vào cơi
Thật Báo Trang Nghiêm, chứng tỏ pháp môn này thù thắng.
Nói thật thà, học Thiền, học Giáo, học Mật,
thật sự thành tựu trong một đời đều
chẳng dễ dàng, duy nhất pháp môn này đúng là “vạn người tu, vạn
người đến”.
Ngay cả công phu buông xuống của Tu Đà Hoàn quư vị
cũng chẳng làm được th́ cũng không sao cả!
Chỉ cần quư vị có thể tin, thật sự bằng
ḷng ra đi, chẳng đoạn một phẩm phiền
năo cũng chẳng sao, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, hạ bối văng sanh. Thế giới Cực Lạc
là một thế giới đặc biệt, đặc biệt
ở chỗ nào? Đặc biệt ở chỗ “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, đặc biệt ở chỗ này. V́
vậy, trong một đời, sanh về thế giới Cực
Lạc, thành A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ
Tát thường được hiểu là Sơ Trụ
trong Viên Giáo, hay Sơ Địa trong Biệt Giáo, không chỉ
vượt thoát lục đạo, mà c̣n vượt thoát mười
pháp giới, họ văng sanh thế giới Cực Lạc là
sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Nhưng chúng ta ở trong thế
giới này, một phẩm phiền năo cũng chưa đoạn,
Ngẫu Ích đại sư nói, người [văng sanh] ấy
thật sự là phàm phu, ngay cả [quả vị] Tu Đà
Hoàn trong Tiểu Thừa [người ấy] vẫn chưa
chứng đắc, cũng là như chúng ta thường nói
là “chưa nhập môn”. Đối với Đại Thừa,
nói theo kinh Hoa Nghiêm, người ấy chưa chứng
đắc địa vị Sơ Tín trong Thập Tín, nhưng
có thể văng sanh. Văng sanh thế giới Cực Lạc được
hưởng thụ, tuy người ấy vẫn thuộc
cơi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng hưởng thụ
như thế nào? Trí huệ, thần thông, đạo lực
bằng với hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Người
ấy chẳng phải là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên
Giáo, nhưng trí huệ và đức tướng bằng với
hàng Sơ Trụ; đấy là do bổn nguyện và oai thần
của A Di Đà Phật gia tŕ. Nói cách khác, chẳng phải
do chính người ấy có, mà do đức Phật ban cho người
ấy được hưởng thụ giống hệt [hàng
Pháp Thân đại sĩ]. V́ vậy, hạ hạ phẩm văng
sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư có thể trở lại
thế giới Sa Bà độ chúng sanh hay không? Có thể! Thật
đấy, chẳng giả đâu! Người ấy có thể
ở trong thế giới này độ chúng sanh th́ có bị
mê hay không? Có khi bị mê! Nhưng mê th́ có bị đọa
lạc hay chăng? Chẳng bị đọa lạc, v́ sao?
Phật chiếu cố người ấy, Pháp Thân Bồ
Tát chiếu cố người ấy. Trong kinh Kim Cang, đức
Thế Tôn chẳng phó chúc đó ư? Phó chúc hàng đại
Bồ Tát thường chiếu cố những vị tiểu
Bồ Tát. Chữ “tiểu Bồ Tát” chỉ loại người
này. Các Ngài gia tŕ, chỉ dạy người ấy khiến
họ giác ngộ ngay lập tức. Bởi lẽ, người
ấy rất dễ giác ngộ, rất dễ quay đầu,
đạo lư ở chỗ này. V́ sao người ấy chẳng
có thành tựu thật sự trong thế giới Cực Lạc
mà lại đến [thế giới này]? Tâm người ấy
từ bi thiết tha, thấy chúng sanh trong thế gian này quá
đáng thương, nên tới đây. Chúng ta hiểu rơ ràng
t́nh h́nh này, trên thế giới này, thật sự có người
tái lai hay chăng? Thật sự có. Cớ sao bậc tái lai
cũng hồ đồ? Người ấy vốn là tái
lai từ cơi Phàm Thánh Đồng Cư nên mới có t́nh h́nh ấy,
chứ trong cơi Phương Tiện quyết định chẳng
có. Đặc biệt là người trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, những người thuộc bậc trung và bậc
hạ giống như vậy cũng rất nhiều, nhất
định là Phật và những vị đại Bồ
Tát thường xuyên chiếu cố họ. Nếu chẳng
chiếu cố họ, họ sẽ bị mê, thật sự
bị mê.
“A tự
công đức như thị, cố Phật hiệu chi công
đức khả tri hỹ” (chữ A có công đức
như thế, nên có thể biết công đức của Phật
hiệu vậy), một chữ đă có công đức chẳng
thể nghĩ bàn, huống hồ câu danh hiệu A Di Đà Phật!
Những điều được nói ở đây đều
nhằm cực lực tán thán danh hiệu có công đức chẳng
thể nghĩ bàn, chúng ta thật sự đă biết, quư vị
niệm danh hiệu này tốt đẹp hơn niệm những
thứ khác. Cổ đại đức nói lời thật:
“Niệm kinh chẳng bằng
niệm chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật”.
V́ sao ngày nay chúng ta vẫn nhấn mạnh chuyện niệm
kinh? V́ chúng ta chưa liễu giải công đức của
danh hiệu này, niệm kinh nhằm giúp cho quư vị liễu
giải, niệm kinh nhằm giúp quư vị phá nghi, khai ngộ.
Niệm kinh cũng nhằm giúp đỡ quư vị thâu hồi
cái tâm, v́ tâm quư vị tán loạn, chẳng phải là tịnh
niệm. Dùng phương pháp niệm kinh để thâu hồi
cái tâm, đều nhằm nhiếp trọn sáu căn. Niệm
một bộ kinh, tâm định rồi, tâm thanh tịnh,
thâu liễm tâm tư bộp chộp, xao động, rồi
mới niệm Phật, công phu sẽ đắc lực, mang
ư nghĩa như thế đó! Phải hiểu rơ ràng, minh bạch
th́ mới có thể thật sự thu được hiệu
quả.
Cuối cùng, ở
đây, lăo cư sĩ bảo chúng ta: “Thả thử nhất cú Phật hiệu, hạ thủ
tối dị, vô phân nam, nữ, lăo, thiếu, bất luận
trí, ngu, nhàn, mang, nhân nhân năng niệm, cá cá khả hành.
Danh triệu vạn đức, diệu cảm nan tư”
(Vả nữa, một câu Phật hiệu này thực hiện
dễ dàng nhất, chẳng phân biệt nam, nữ, già, trẻ,
bất luận trí, ngu, rảnh, bận, ai cũng có thể
niệm, ai cũng có thể hành. Danh chiêu vời vạn
đức, cảm ứng mầu nhiệm khó thể nghĩ
tưởng). Cụ viết những câu này nhằm khuyên dạy
chúng ta, một câu Phật hiệu này tu tập dễ dàng nhất;
trong vô lượng pháp môn, chẳng có pháp môn nào dễ hơn
được nữa, một câu Phật hiệu này là pháp
dễ dàng nhất. V́ thế, chẳng phân biệt nam, nữ,
già, trẻ, chẳng phân biệt trí, ngu, rảnh rỗi, bận
bịu, mỗi cá nhân đều có thể niệm, lúc nào,
chỗ nào cũng đều có thể niệm. Niệm Phật
chớ nên câu thúc. Chúng ta nằm ngủ có thể niệm được
chăng? Niệm được. Nằm ngủ chớ nên niệm
ra tiếng, v́ sao? Niệm ra tiếng thương tổn thân,
khí, [niệm thầm] có công đức giống hệt như
[niệm ra tiếng]. [Niệm Phật] trong nhà vệ sinh dường
như chẳng cung kính? Chẳng cung kính th́ chẳng niệm
ra tiếng! Nếu không niệm ra tiếng mà chẳng thể
nhiếp tâm th́ quư vị niệm ra tiếng là được
rồi. Niệm ra tiếng có phải là thiếu cung kính hay
chăng? Thiếu cung kính là chuyện nhỏ, v́ sao? Phật,
Bồ Tát chẳng quở trách quư vị, chính quư vị nhiếp
tâm mới là chuyện lớn! Lớn tiếng niệm Phật
trong nhà vệ sinh mà Phật quở trách chúng ta, Ngài sẽ
chẳng phải là Phật, Ngài sanh phiền năo, làm sao Phật
có thể sanh phiền năo? Đâu có đạo lư ấy! Phật
chỉ mong quư vị thành tựu, mong câu Phật hiệu này
thật sự có thể khống chế phiền năo của
quư vị. Niệm Phật chẳng có ǵ khác, mà v́ lẽ này!
Quư vị chẳng niệm Phật, vọng niệm nổi
lên, dùng câu Phật hiệu này để thay thế vọng
niệm, vọng niệm chẳng c̣n nữa, toàn là câu Phật
hiệu này. Vậy th́ quư vị đă công phu thành phiến, thật
sự đạt công phu thành phiến, có thể văng sanh bất
cứ lúc nào. Trong công phu thành phiến cũng có ba bậc chín
phẩm, ba phẩm thuộc bậc thượng văng sanh tự
tại, muốn đi lúc nào bèn đi lúc đó, muốn ở
lại thêm mấy năm cũng chẳng trở ngại. Đấy
là kỳ vọng của A Di Đà Phật, chư Phật,
Bồ Tát đối với chúng ta, đó gọi là ǵ? Đó
là cung kính thật sự! Cung kính chẳng phải các thứ
chấp trước h́nh thức trong thế gian này; nhưng
chúng ta cũng phải coi trọng h́nh thức, v́ sao? Tránh
cho người khác tạo khẩu nghiệp, chủ yếu
là ở chỗ này. Kẻ mới học chẳng biết,
nghĩ quư vị thiếu cung kính, bèn tạo khẩu nghiệp,
họ trông thấy, khó chịu, phê b́nh quư vị. Kẻ ấy
chẳng liễu giải Phật pháp thấu triệt. Liễu
giải thấu triệt th́ người ta thấy hiện
tượng ấy vẫn chẳng khởi
tâm, không động niệm, chớ hề có phân biệt, chấp
trước. Lư và Sự chúng ta đều phải hiểu
rơ ràng, minh bạch. Do vậy, nếu hiểu th́ ai nấy
đều có thể niệm, ai nấy đều có thể
hành.
“Danh
triệu vạn đức, diệu cảm nan tư”. Đối
với câu này, chúng tôi nghĩ đến lời tựa rất
dài do Mai Quang Hy đại sư đă viết ở trước
[phần chánh văn của] bản kinh này nhằm giới
thiệu cặn kẽ bản hội tập này. Trong phần phụ lục của bản giảng nghĩa này có bài
tựa ấy, quư vị hăy nên đọc, trong ấy, có những
thông tin rất quan trọng. Cụ đă giảng thấu
triệt câu “danh triệu vạn
đức, diệu cảm nan tư” này. Trong ấy, có một
đoạn giảng giải như thế này: Vào thời đại
Tùy - Đường, đúng là vào thời đó, cao tăng
đại đức quá nhiều. Trong [bản chú giải]
kinh này, đă trích dẫn lời các pháp sư Đại Hàn
và Nhật Bản, đều là những người đă
đến Trung Quốc du học vào thời ấy. Sau khi
trở về, họ bèn trở thành khai sơn tổ sư
của nhiều tông phái. Những vị ấy đă thân cận
Thiện Đạo đại sư, thân cận Trí Giả
đại sư, có quan hệ hết sức sâu dầy với
các Ngài. Trong bản Đại Kinh Giải này, lăo cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ đă trích dẫn bọn họ rất nhiều.
Họ từng nghĩ, trong hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu
Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, bộ
kinh nào quan trọng nhất, có thể đại diện
cho những ǵ lăo nhân gia đă nói suốt cả một đời?
Kết quả là hết thảy mọi người đều
tôn sùng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.
V́ thế, kinh Hoa Nghiêm được xưng tụng là “kinh trung chi vương” (vua của
các kinh), cũng có nghĩa là hết thảy những kinh khác
do đức Phật đă nói trong bốn mươi chín năm
đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm; kinh Hoa Nghiêm
là chánh yếu nhất, mọi người đều công
nhận. Tôi tiếp xúc Phật pháp là do giáo sư Phương
Đông Mỹ giới thiệu. Cụ nói kinh Hoa Nghiêm là khái
luận của toàn bộ Phật học, cũng là tôn sùng
kinh đến vị trí trọng yếu nhất, tức là
[kinh Hoa Nghiêm] là khái luận [của toàn bộ] triết học
trong kinh Phật. Kinh Hoa Nghiêm tới cuối
cùng, thành tựu viên măn ra sao? Hai vị đại Bồ Tát
Văn Thù và Phổ Hiền hướng dẫn bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ trong hội Hoa Nghiêm cầu sanh Tịnh Độ, tới
thế giới Cực Lạc để gặp A Di Đà Phật,
tới thế giới Cực Lạc để tham học,
như vậy th́ mới thành tựu. [Kinh Hoa Nghiêm] dẫn về
Cực Lạc, mà bộ kinh này chuyên giảng Cực Lạc,
cũng có nghĩa là kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng quy vào
kinh Vô Lượng Thọ. Vậy th́ kinh Vô Lượng Thọ
cao hơn kinh Hoa Nghiêm, không dưới Hoa Nghiêm, mà ở trên
Hoa Nghiêm; nhưng Hoa Nghiêm khó khăn! Nhập cảnh giới
Hoa Nghiêm phải tu Pháp Giới Quán, chẳng phải là chuyện
dễ dàng! Kinh này c̣n cao hơn kinh Hoa Nghiêm, nhưng dùng một
câu A Di Đà Phật là có thể thành tựu. Nói cách khác, một
câu A Di Đà Phật bèn nhập cảnh giới Hoa Nghiêm;
cho nên kinh Vô Lượng Thọ được xếp vào bậc
nhất.
Bản kinh Vô Lượng Thọ
hiện thời của chúng ta là bản hội tập, chia
toàn bộ bản kinh thành bốn mươi tám phẩm, nói
là “bốn mươi tám chương” cũng được,
do lăo cư sĩ Hạ Liên Cư phân chia. Trong bốn mươi
tám phẩm ấy, phẩm nào trọng yếu nhất? Chúng
ta t́m phẩm trọng yếu nhất, đương nhiên là
phẩm thứ sáu. Phẩm thứ sáu do đích thân A Di
Đà Phật giảng, chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật
nói, mà do chính A Di Đà Phật nói, Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ
thuật lại, kể cho chúng ta biết. Từng câu, từng
chữ trong bốn mươi tám nguyện đều do A
Di Đà Phật nói. Bốn mươi tám nguyện th́ có bốn
mươi tám điều, điều nào trọng yếu
nhất? Trong quá khứ, các tổ sư đại đức
cũng công nhận nguyện thứ mười tám quan trọng
nhất. Nguyện thứ mười tám là ǵ? Mười
niệm ắt văng sanh. Do vậy, tại Nhật Bản có
tông phái gọi là Bổn Nguyện Niệm Phật. Họ dựa
vào nguyện thứ mười tám, niệm A Di Đà Phật
bèn thành công. Chẳng sai! Cổ đại đức Nhật
Bản sáng lập pháp môn này, các Ngài thành tựu, nhưng người
hiện thời tu học pháp môn ấy, tôi thấy rất
nhiều vấn đề, vấn đề to lớn, v́
sao? Họ không hiểu giáo nghĩa. Cổ đại đức
dùng một câu A Di Đà Phật này, nhưng họ có cơ
sở, họ hiểu rơ, c̣n những người học
theo hiện thời, một tí lư luận trong các bộ đại
kinh, đại luận, họ cũng không biết, chấp
tŕ một câu danh hiệu này, phiền năo lẫn tập khí
đều chẳng đoạn, làm sao có thể thành tựu
cho được? Họ cũng chẳng thật sự phát
tâm. Tông chỉ của kinh này là “phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”,
họ có một mực chuyên niệm, nhưng chẳng phát Bồ
Đề tâm. Bồ Đề tâm là ǵ? Chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi. Cổ nhân niệm một
câu A Di Đà Phật này, quư vị quan sát cẩn thận, thật
vậy, các Ngài có tâm ấy, cho nên các Ngài tương ứng.
Người niệm Phật hiện tại dùng vọng
tâm, tự tư tự lợi, tham cầu tiếng tăm,
lợi dưỡng, tham cầu hưởng thụ ngũ
dục, lục trần, lại c̣n tổn người, lợi
ḿnh, làm sao có thể văng sanh? Niệm câu danh hiệu này, họ
chỉ có thể đạt được lợi ích là
gieo một chủng tử niệm Phật trong A Lại Da
Thức, sẽ có thành tựu trong đời kế tiếp
hay đời sau nữa, chứ đời này họ chẳng
thể thành tựu. Chúng ta chớ nên không biết điều
này!
Lại giảng Bồ
Đề tâm rơ ràng, trong phần trước của bản
chú giải này, chúng ta đă đọc thấy “phát Bồ Đề tâm là phát tâm
thành Phật, phát tâm làm Phật. Phát tâm làm Phật là phát tâm độ
chúng sanh”. Chẳng có cái tâm giúp đỡ và thành tựu
chúng sanh, niệm câu A Di Đà Phật sẽ chẳng tương
ứng với thế giới Cực Lạc. V́ thế, Ngẫu
Ích đại sư đă giảng rất hay, trong phần
trước, chúng ta đă đọc rồi, có thể văng sanh
hay không được quyết định bởi có tín
nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp do công phu niệm
Phật cạn hay sâu. Ngài nói lời này hay quá! Bốn
mươi tám nguyện của A Di Đà Phật được
hết thảy chư Phật Như Lai tán thán, v́ sao? Rộng
độ chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, thâu trọn
lợi căn lẫn độn căn. Trong tâm A Di Đà Phật
chẳng có ǵ khác, niệm niệm luôn giúp đỡ chúng sanh
mau chóng thành Phật giống hệt như Ngài. Sau khi thành Phật,
sẽ phổ độ chúng sanh. Ngài chẳng tự tư
tự lợi, chẳng tạo tiếng tăm, lợi
dưỡng; ngày nay chúng ta niệm Phật gặp chướng
ngại lớn nhất, vấn đề là ở chỗ này!
Do vậy, trong hai mươi, ba mươi năm gần đây,
tôi thường nói, thường khuyên dạy các đồng
học, chính ḿnh cũng phải thật sự làm, buông tự
tư tự lợi xuống. Tôi lớn tuổi như vậy,
đă ngoài tám mươi, người đă nên chết rồi,
sống một ngày phải báo ân Phật một ngày. Báo ân
Phật là ǵ? Tự hành, khuyên người khác. Mỗi ngày
đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, tuân theo lư luận
và phương pháp trong kinh Vô Lượng Thọ để
tu học nhằm tự lợi; đồng thời chia sẻ
những điều tâm đắc trong sự học tập
của chính ḿnh với các đồng học hữu duyên,
kinh gọi đó là “tâm độ chúng sanh”. Sống một
ngày, làm một ngày, có nghĩ tới ngày mai hay không? Không nghĩ
tới ngày mai, chẳng có ngày mai, tám mươi tuổi đă
đáng nên chết, c̣n mong tưởng ǵ nữa! Sống một
ngày bèn làm một ngày, sống hai ngày bèn làm hai ngày, điều
ǵ cũng chẳng nghĩ tới, điều ǵ cũng đều
buông xuống. Năm xưa, lăo cư sĩ Triệu Phác Sơ,
vị này là bậc trưởng thượng, là trưởng
bối của chúng tôi, hết sức yêu thương tôi, mà
cũng rất quan tâm, khuyên tôi rất nhiều lần, lá rụng
về cội! Tôi là người vô cùng hoài niệm cái cũ,
đối với quê nhà có t́nh chấp rất sâu, bao nhiêu năm
nghĩ tới quê cũ, nơi quê cũ c̣n có tiểu miếu,
thật ra là Thiền Tự, tôi tính trùng tu. Nhiều năm như
vậy, tôi biết nhất định sẽ gặp khó
khăn, đấy cũng là một thứ t́nh chấp, cần
phải buông xuống. Quê nhà của chư Phật, Bồ
Tát ở đâu? Trọn khắp pháp giới hư không giới,
chẳng phải là một chỗ, nơi nào cũng đều
là [quê nhà], hết thảy thời, hết thảy chỗ, hết
thảy chúng sanh và chính ḿnh đều cùng một Thể. V́
vậy, ắt phải buông xuống loại t́nh chấp ấy,
chẳng c̣n nghĩ tới nữa! Trong thế giới này, cả
xă hội đều đang động loạn, tai nạn
dồn dập, nơi nào có duyên bèn đến nơi đó,
mỗi ngày đều nghĩ là ngày cuối cùng của ta, không
nghĩ tới ngày mai, chẳng có ngày mai, ta ở trong thế
gian này cho tới hôm nay bèn kết thúc. Điều ǵ trọng
yếu nhất? Niệm Phật trọng yếu nhất,
khuyên người khác niệm Phật trọng yếu nhất.
Trừ điều này ra, chuyện ǵ cũng đều chẳng
khẩn yếu, đều nên triệt để buông xuống!
Do vậy, quư vị hiểu
một câu danh hiệu này, danh hiệu triển khai thành bốn
mươi tám nguyện, một câu danh hiệu này tổng
nhiếp bốn mươi tám nguyện, bốn mươi
tám nguyện triển khai thành kinh Vô Lượng Thọ, kinh
Vô Lượng Thọ triển khai thành Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh triển khai thành hết thảy các pháp
do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm.
Quư vị thấy cương lănh là một câu A Di Đà Phật,
quư vị mới thật sự hiểu “danh triệu vạn đức, diệu cảm nan
tư”. Hết thảy các kinh được nói trong bốn
mươi chín năm quy về kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm quy về
Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ quy vào bốn
mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện quy
vào một câu Phật hiệu này! Nếu lại khuếch đại,
khuếch đại hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong bốn mươi chín năm sẽ là vô tận
pháp môn do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đă nói. Thật
vậy, chẳng giả! Quư vị hiểu rơ đạo lư
này, mới biết một câu Phật hiệu này chẳng
thể nghĩ bàn, v́ sao quư vị chẳng niệm? V́ sao niệm
gián đoạn? Vậy là quư vị lầm lẫn quá đỗi
rồi! Mấy ai biết bí mật này? Người thật
sự biết quá ít!
Chúng ta
thấy phần cuối c̣n có mấy câu: “Tùng hữu niệm xảo nhập vô niệm, tức phàm tâm đốn
hiển quả đức” (Từ hữu
niệm khéo nhập vô niệm, dùng ngay cái tâm phàm để
nhanh chóng hiển bày quả đức), lời này là thật.
Phàm phu thành Phật, dùng pháp môn này rất nhanh chóng, một đời
thành tựu, đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa,
thích đáng, đáng tin cậy, t́m pháp môn nào khác giống
như vậy chẳng ra! Cuối cùng, cụ nói: “Như Sớ Sao vân” (như
sách Sớ Sao viết), tức là Liên Tŕ đại sư
nói, “tề chư thánh ư phiến
ngôn” (bằng chư thánh trong một lời), “phiến ngôn” là danh hiệu, “tề” (齊) là b́nh đẳng với họ,
“chư thánh” là ai? Bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ, quư vị dùng một câu Phật hiệu này sẽ b́nh
đẳng với họ, thật đấy! V́ sao biết
là thật? Chính A Di Đà Phật nói ra, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là A
Duy Việt Trí Bồ Tát, chẳng phải là b́nh đẳng
hay sao? A Duy Việt Trí Bồ Tát là bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ. “Việt tam kỳ ư nhất niệm” (vượt
khỏi ba đại A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm),
“việt” (越) là siêu việt (vượt trỗi, vượt thoát),
“tam kỳ” là ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, một câu A Di Đà Phật này bèn vượt qua,
chẳng cần phải tốn thời gian dài như thế,
trong đời này văng sanh thế giới Cực Lạc, bèn
vượt hơn những vị Bồ Tát đă tu trong ba
đại A-tăng-kỳ kiếp. “Cực viên, cực đốn, chí giản, chí dị”
(cực viên, cực đốn, đơn giản, dễ dàng
tột bậc), đơn giản đến tột bậc,
dễ dàng tới tột bậc, viên cực, đốn cực.
Được làm thân người, nghe Phật pháp, gặp
gỡ pháp môn như thế này, quả thật không dễ
dàng!
“Cố
tri phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm,
bất đản vi bổn kinh chi cương tông, thật
diệc vi nhất Đại Tạng giáo chi chỉ quy dă”
(Nên biết phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm
chẳng phải chỉ là cương lănh và tông chỉ của
kinh này, mà quả thật cũng là chỗ chỉ quy của
giáo pháp trong Đại Tạng vậy). Lời kết luận
cuối cùng hay quá! V́ thế, người tu Tịnh Tông chúng
ta muốn thành tựu trong một đời này, nhất
định phải biết tám chữ ấy, quư vị phải
hiểu rất rơ ràng, phải biết rất thâm nhập,
phải phát Bồ Đề tâm. Phát Bồ Đề tâm th́
nhất định phải phát tâm làm Phật, ta phải
thành Phật trong một đời này. V́ sao phải thành Phật?
Ta phải độ chúng sanh, phải giúp đỡ hết
thảy chúng sanh khổ nạn, mong mỏi họ đều
có thể thành Phật giống như ta! Nếu quư vị
có tâm như vậy, có nguyện như vậy, một câu A
Di Đà Phật này sẽ có cảm ứng chẳng thể
nghĩ bàn. V́ thế, [tám chữ ấy] không chỉ là cương
yếu và tông chỉ của kinh Vô Lượng Thọ, mà nói
thật ra, nó là chỉ quy của hết thảy kinh giáo do Thích
Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong bốn mươi chín năm.
“Chỉ quy” có ư nghĩa giống
như cương tông (cương yếu, tông chỉ). Nói
cách khác, thọ tŕ một câu A Di Đà Phật này, thật
sự phát tâm làm Phật, phát tâm độ chúng sanh, giúp
đỡ hết thảy chúng sanh thoát ĺa biển khổ, ĺa
khổ được vui, quư vị có cái tâm ấy, sẽ
có hành vi ấy. Giúp đỡ ra sao? Phải nói tường
tận, rơ ràng pháp môn và kinh điển này cho họ biết,
họ mới có thể ĺa khổ rốt ráo, được
vui rốt ráo. Do vậy, đại thánh đại hiền
thế gian và xuất thế gian giúp đỡ hết thảy
chúng sanh khổ nạn chỉ dùng phương pháp giáo học.
Tự ḿnh giải quyết vấn đề của chính ḿnh,
cũng là nghiêm túc học tập th́ mới có thể làm
được. Chính ḿnh chẳng nghiêm túc học tập, sẽ
chẳng có cách nào giúp đỡ người khác. Giúp đỡ
cả nhà, giúp đỡ toàn bộ xă hội, giúp đỡ
cả thế giới đều do cùng một đạo
lư này. V́ vậy, nhất định phải nghiêm túc nỗ
lực nêu gương tốt cho mọi người thấy,
người ta sẽ tin tưởng. Hôm nay hết thời
gian rồi, chúng ta học tập tới đây.
Tập 28
Chư vị pháp sư, chư vị
đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi
tám. Đoạn Ất, “thứ
minh Thú” (kế tiếp giảng về Thú). Xin xem phần
kinh văn ấy:
“Phù Tông
chi sở quy giả, danh Thú. Phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm chi sở quy, tại ư văng sanh
Cực Lạc Tịnh Độ, chứng tam Bất Thoái.
Cố bổn kinh dĩ viên sanh tứ độ, kính
đăng Bất Thoái vi Thú” (phàm chỗ Tông quy vào th́ gọi
là Thú. Chỗ quy về của “phát Bồ Đề tâm, một
mực chuyên niệm” là văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ,
chứng ba thứ Bất Thoái. V́ thế, kinh này lấy “sanh
trọn vẹn trong bốn cơi, mau chóng đạt lên Bất
Thoái” làm Thú). Trước hết, giải thích đơn giản,
dễ hiểu tiểu đề của khoa này. Trong phần
trước, đoạn thứ nhất giảng về
Minh Tông, tức là giảng rơ nguyên tắc chỉ đạo
tu học tối cao của bộ kinh này, đó cũng là
phương hướng. Trong đoạn này, Thú (趣) là thú hướng (hướng đến), quy thú (hướng
về), chúng ta nương theo tông chỉ và nguyên tắc chỉ
đạo này để học tập, cuối cùng chúng ta
sẽ đạt được kết quả như thế
nào. Đấy là Thú.
Do trong phần trước đă nói tông
chỉ là “phát Bồ Đề
tâm, nhất hướng chuyên niệm”, hai câu ấy trọng
yếu phi thường! Phát Bồ Đề tâm là ǵ, phải
hiểu rơ ràng, minh bạch. Trong phần trước, nói đơn
giản th́ phát Bồ Đề tâm là “phát tâm thành Phật, tâm
làm Phật”. Làm Phật nghĩa là ǵ? Làm Phật là muốn
phổ độ hết thảy chúng sanh, giúp đỡ những
chúng sanh mê hoặc, điên đảo ấy được
giống như chư Phật, giống hệt như chính
ḿnh, cũng đều trở về tự tánh, đều
chứng đắc Bồ Đề rốt ráo viên măn, đấy
là Thú. Niệm niệm chẳng đánh mất Bồ Đề
tâm, câu này rất trọng yếu. Kinh Hoa Nghiêm có nói: Nếu
quư vị quên mất Bồ Đề tâm, hết thảy các
pháp đă tu đều là ma nghiệp. “Nghiệp” là sự
nghiệp, quư vị làm những việc ấy đều dính
dáng tới ma! V́ sao? Đều là phước báo trong tam giới,
chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi, đó gọi
là ma! Phật là vượt thoát luân hồi, vượt thoát
mười pháp giới. Quư vị chẳng thể thoát ra, đó
gọi là “vùi dập”, quư vị vẫn bị vùi dập
trong lục đạo, phải liễu giải rất rơ
ràng, rất minh bạch ư nghĩa này.
V́ thế, chúng ta học
Phật, mục tiêu là thế giới Cực Lạc, cuối
cùng chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc, khi nào? Ngay
trong một đời này. Tới thế giới Cực Lạc
để làm ǵ? Đến chứng ba món Bất Thoái. Vị
Bất Thoái là vĩnh viễn chẳng c̣n lui xuống địa
vị phàm phu trong mười pháp giới. Chư vị phải
biết: Lục đạo trong mười pháp giới gọi
Nội Phàm, [nghĩa là] phàm phu c̣n thuộc trong tam giới.
Tứ thánh pháp giới gọi là Ngoại Phàm, [tức là] ở
ngoài lục đạo, nhưng chưa ra khỏi mười
pháp giới th́ vẫn phàm phu. Tiêu chuẩn [phân biệt] phàm
và thánh ở nơi đâu? Phàm phu dùng A Lại Da, tức vọng
tâm; thánh nhân dùng chân tâm, dùng tự tánh, sai biệt ở chỗ
này. Chỉ cần dùng A Lại Da, sẽ chẳng thoát khỏi
mười pháp giới. Tuy tứ thánh pháp giới dùng vọng
tâm, nhưng dùng chính đáng, hoàn toàn tuân theo giáo huấn của
Phật, Bồ Tát, y giáo phụng hành. V́ thế, rất giống
Phật, Bồ Tát, tuy chưa phải là chân thật, nhưng
rất tương tự, tuy trên thực tế chẳng giống,
cũng tức là họ chưa chuyển Thức thành Trí.
Chuyển bát thức thành tứ trí, sẽ là Phật thật
sự, là thánh nhân thật sự. Chúng ta hiểu rơ ràng, minh
bạch những Sự Lư này, chính ḿnh là hạng người
như thế nào, chẳng cần phải hỏi [người
khác], chính ḿnh biết quá rơ ràng! Ta là phàm phu, hay là Phật, Bồ
Tát chẳng rơ rệt hay sao? Nếu là phàm phu, hăy nghiêm túc, nỗ
lực, nương theo Tông Thú trong kinh giáo để tu hành.
Bồ Đề tâm là tâm thành Phật, tâm độ chúng sanh.
Thành Phật bằng cách nào? Độ chúng sanh ra sao? Thưa
quư vị, [chính là] chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh
giác, từ bi, dùng những điều ấy để viên
thành Phật đạo, mà vẫn dùng những điều ấy
để giáo hóa chúng sanh sẽ chẳng sai! Tự ḿnh thành
tựu chẳng dễ dàng, giáo hóa chúng sanh càng khó hơn. V́
thế, đem những ǵ chính ḿnh đă tu, đă hành đưa
về Tịnh Độ, cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chuyện này dễ dàng, đỡ tốn
công hơn! Sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới,
tuy chưa đoạn tập khí phiền năo, nhưng cũng
giống như đă chuyển Thức thành Trí. Trong thế
giới Cực Lạc, trong một đời, chắc chắn
chứng đắc quả vị rốt ráo, [chứng
đắc] Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm
Bất Thoái.
“Cố bổn kinh dĩ viên sanh tứ độ”
(nên kinh này lấy sanh trọn vẹn về bốn cơi), phía
trước thêm một chữ Viên, Viên là viên măn. Đối
với bốn cơi ấy, quư vị chỉ cần sanh vào một
cơi, bốn cơi đều viên măn! Hơn nữa, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, liền chứng
đắc ba món Bất Thoái. Lời nguyện thứ mười
chín của A Di Đà Phật đă bảo rơ ràng: Văng sanh thế
giới Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ
Tát. A Duy Việt Trí là [đạt được] ba món Bất
Thoái, quư vị bèn viên chứng ba thứ Bất Thoái. Đây
là điều hiếm có, khó gặp! Phải biết chuyện
này là chân thật, nên chuyện này mới gọi là “đại
sự”. Trọn pháp giới, hư không giới, trong hết
thảy các cơi Phật, chẳng có chuyện nào lớn hơn
chuyện này! Ngày nay chúng ta may mắn gặp gỡ, há chẳng
cảm ơn? Há chẳng trân trọng! Há chẳng phát tâm thành
tựu trong một đời này? Vậy là quư vị đă
lầm lẫn quá đỗi, chẳng có ǵ quan trọng hơn
chuyện này. Phải như thế nào th́ mới được?
Tổ Ấn Quang dạy chúng ta, đem chữ “Tử” dán
trên trán, thời thời khắc khắc nghĩ ta sắp
chết, điều ấy có nghĩa là ǵ? Khiến cho quư vị buông thân, tâm, thế giới xuống,
“phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”, dạy quư vị điều
ấy. Tôi cũng thường nói, hoặc khuyên lơn, cổ
vũ đồng học: Hăy coi ngày hôm nay như ngày cuối
cùng của ta trên thế gian này, ngày hôm nay là ngày cuối cùng
của ta, chuyện ǵ nên làm, chuyện ǵ chớ nên làm, há chẳng
phải là rơ ràng, minh bạch ư? Chuyện nên làm là phát
tâm niệm Phật, cầu Phật tiếp dẫn, những
chuyện khác đều kém quan trọng hơn. Trong những
chuyện thứ yếu, thứ nhất giúp đỡ chúng
sanh hữu duyên, khuyên dạy họ phát tâm niệm Phật,
đấy là chuyện thứ yếu. Chuyện kém quan trọng
hơn có thể buông xuống. Khi cần thiết, chuyện
này cũng có thể buông xuống; về thế giới Cực
Lạc trước đă! Đến thế giới Cực
Lạc, sau khi thành tựu rồi sẽ trở lại cũng
chẳng muộn! Đây là đại sự nhân duyên khiến
đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian, chúng
ta chớ nên không biết đại sự nhân duyên này, chớ
nên chẳng nắm chắc duyên phận này.
Trong phần tiếp
theo, chúng ta cũng phải học tập kỹ càng đoạn
kinh văn này, [những điều nói trong đoạn này]
đều là kinh văn! Biết chúng ta phải sanh về đâu;
trước hết, phải hiểu rơ ràng, minh bạch chỗ
ta sẽ sanh về. “Phù Tịnh
Độ hữu tứ độ” (phàm Tịnh Độ
có bốn cơi). [Chữ “phù”] ở
đầu câu này là một ngữ trợ từ (tiếng đệm)
trong Văn Ngôn, chẳng có ư nghĩa ǵ. Ở đây nói Tịnh
Độ có bốn thứ: Thứ nhất là cơi Phàm Thánh
Đồng Cư, thứ hai là cơi Phương Tiện Hữu
Dư, thứ ba là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, thứ tư là
Thường Tịch Quang Tịnh Độ. “Dĩ hạ lược thuyết
minh tứ độ văng sanh chi tướng” (dưới
đây, nói đại lược tướng văng sanh trong bốn
cơi). Tiếp đó, đoạn Minh Thú này chia thành bốn đoạn.
Chúng ta xem đoạn thứ nhất, tức cơi Phàm Thánh
Đồng Cư. [Danh xưng này] nêu rơ nơi ấy vừa
có phàm phu, vừa có thánh nhân. Nói cách khác, từ lục đạo
tới tứ thánh pháp giới, nếu tiến cao lên th́ có Đại
Thừa và Tiểu Thừa. Tiểu Thừa có Tứ Quả
và Tứ Hướng[6], Đại Thừa theo như kinh Hoa Nghiêm nói có năm
mươi mốt giai vị, tức [năm mươi mốt]
địa vị Bồ Tát. Trong phạm vi của cơi Phàm
Thánh Đồng Cư, [thánh và phàm] đều ở cùng một
chỗ, nên gọi là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Tuy ở
cùng một nơi, chiều không gian (spatial dimensions, không gian
duy thứ) của mỗi tầng lớp khác biệt.
Chúng ta xem tiếp, đoạn
văn tự kế tiếp là: “Cực
Lạc thế giới chi Phàm Thánh Đồng Cư độ,
thị đồng cư Tịnh Độ” (Cơi Phàm Thánh
Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc là cơi Tịnh
Độ đồng cư). Hăy chú ư chữ “Tịnh”, nó là
Đồng Cư Tịnh Độ, khó có! V́ sao? Phàm phu, tức
lục đạo phàm phu, ở trong thế giới ấy tiếp
nhận sự giáo huấn của A Di Đà Phật, khiến
cho chúng ta nghĩ đến câu nói của tổ tông: “Kiến quốc, quân dân, giáo học
vi tiên” (kiến thiết đất nước, cai trị
nhân dân, giáo học làm đầu). Tam Tự Kinh giảng rất
hay: “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện; tánh tương cận, tập tương viễn;
cẩu bất giáo, tánh năi thiên” (Con người thoạt
đầu tánh vốn lành, tánh gần giống nhau, do huân tập
mà thành khác nhau. Nếu chẳng dạy, tánh sẽ biến đổi).
Thế giới Cực Lạc hoàn toàn thực hiện những
ǵ đă nói trong câu này. Trong thế giới Cực Lạc, A
Di Đà Phật dạy mỗi ngày, A Di Đà Phật rất
tuyệt vời! Ngài chứng nhập tự tánh viên măn; v́
thế, Tánh Đức khởi tác dụng, thật sự phát
huy tác dụng đến tột cùng. Nghĩa là sao? Thế
giới Cực Lạc có bao nhiêu chúng sanh, A Di Đà Phật
liền biến hóa bấy nhiêu thân. Mỗi cá nhân đối
diện A Di Đà Phật, A Di Đà Phật đích thân chỉ
dạy. Đấy là Tánh Đức phát huy viên măn. Đồng
thời, phàm phu trong thế giới Cực Lạc, do [tất
cả nhân dân trong] thế giới Cực Lạc đều
là thiện tâm, đều tu thiện, cho nên chỉ có thiện
đạo, chẳng có ác đạo. Lục đạo trong
cơi ấy chỉ gồm hai đường, chẳng có A Tu
La, chẳng có ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh, chỉ
có hai đường nhân thiên, khác hẳn! Nhưng nhân thiên
bên đó, do được bổn nguyện và oai thần của
A Di Đà Phật gia tŕ, trong phần trước chúng ta
đă học, họ đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát.
Điều này có nghĩa là: Tuy họ là phàm phu, nhưng cuộc
sống vật chất, cuộc sống tinh thần, đời
sống tu hành, đều hưởng thụ giống hệt,
có cùng một mức độ như Pháp Thân Bồ Tát. Pháp
Thân Bồ Tát cũng có thể hóa vô lượng vô biên thân, giống như A Di Đà Phật, họ có
thể hóa ra vô lượng vô biên thân. Hóa thân để làm
ǵ? Hóa thân tới hết thảy các cơi Phật trong mười
phương để cúng Phật, nghe pháp, chẳng thể
nghĩ bàn! Cúng Phật là tu phước, tu vô lượng
vô biên phước báo, nghe pháp là tu huệ.
Nếu
chúng ta hỏi, mười phương chư Phật Như
Lai giảng pháp ǵ cho những người ấy? Chư vị
đồng học có nghĩ đến [chuyện ấy]
hay không? Mười phương chư Phật, quư vị đến
nghe pháp, các Ngài giảng cho quư vị pháp ǵ? Chư vị chẳng
trả lời được! Tôi suy nghĩ rồi nói ra,
quư vị suy ngẫm xem có lư hay không nhé? Có đồng ư hay
không nhé? Mười phương hết thảy chư Phật
Như Lai đều giảng kinh Vô
Lượng Thọ, đều dạy quư vị “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”, quư vị nghĩ xem có thể
là như vậy hay chăng? Có đúng như vậy hay không?
Thuở đức Thế Tôn tại thế đă nhiều
lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, cho dù nói hết
thảy các kinh, cũng thường xuyên giới thiệu kèm
thêm thế giới Cực Lạc và A Di Đà Phật. Chúng
ta có thể dự đoán được! V́ sao? Trong kinh Đại
Thừa, đức Phật bảo: “Thập phương tam thế Phật, cộng
đồng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất trí huệ,
lực vô úy diệc nhiên” (Mười phương ba đời
Phật, cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ,
lực, vô úy cũng thế). Đây là căn cứ lư luận
để chúng ta dựa vào, suy ra mười phương chư
Phật giáo hóa chúng sanh đều dùng kinh Vô Lượng Thọ.
Vô Lượng Thọ là chỗ quy thú của kinh Hoa Nghiêm và
Pháp Hoa, đương nhiên [mười phương chư
Phật] giảng bộ kinh này. V́ vậy, quư vị muốn
học kinh giáo th́ học kinh ǵ? Quư vị học kinh Vô
Lượng Thọ [là bản kinh]
được hết thảy chư Phật cùng nhau tuyên
dương; đấy là Đại Thừa viên măn. Bộ
kinh này học thông, môn nào cũng đều thông, chớ nên
chuốc phiền nữa! Khi thật sự thông hiểu một
kinh, sẽ thông hiểu hết thảy kinh. Học thông suốt
bộ kinh này, quư vị sẽ có thể giảng kinh Hoa
Nghiêm, có thể giảng kinh Pháp Hoa. Đă có thể giảng
Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, quư vị sẽ có thể giảng hết
thảy các kinh, đấy là bí quyết. Quư vị thật
sự hiểu rơ ràng, thật sự hiểu tông chỉ của
Tịnh Tông Học Viện, sẽ hiểu rơ tông thú, có c̣n
phải rườm lời hay không? Chẳng cần! Phải
nhận thức Đồng Cư Tịnh Độ
chẳng thể nghĩ bàn!
Tiếp đó, sách viết:
“Ngă đẳng sở tại
chi Sa Bà thế giới, diệc thị Phàm Thánh Đồng
Cư độ” (thế giới Sa Bà chúng ta đang ở
cũng là cơi Phàm Thánh Đồng Cư), cũng là cơi Phàm
Thánh Đồng Cư. “Thử
độ diệc hữu phàm, hữu thánh, như Văn Thù
thường hiện Ngũ Đài” (cơi này cũng có phàm
và thánh, như ngài Văn Thù thường hiện thân ở núi
Ngũ Đài), Văn Thù Bồ Tát thường thường
xuất hiện tại Ngũ Đài sơn; “chư A La Hán thường văng Thiên
Mục hoặc Nhạn Đăng” (các vị A La Hán thường
đến núi Thiên Mục hoặc Nhạn Đăng), hai rặng
núi này ở tỉnh Chiết Giang. Núi Thiên Mục gồm năm
ngọn, Đông, Nam, Tây, Bắc, Trung, ở tại Chiết
Giang. Nhạn Đăng là đạo tràng của Thiên Thai đại
sư, cách núi Thiên Thai chẳng xa. “Thị giai thử độ chi thánh dă” (đều
là các bậc thánh trong cơi này). Đây là nêu ví dụ, chẳng
hạn như Quán Âm tại Phổ Đà, Địa Tạng
tại Cửu Hoa, Phổ Hiền tại Nga Mi, những vị
ấy đều là thánh nhân. “Đản
ngă đẳng sở cư chi Đồng Cư độ thị
Đồng Cư uế độ” (Nhưng cơi Đồng
Cư chúng ta đang sống là Đồng Cư uế độ),
chẳng phải là Tịnh Độ. Do nguyên nhân nào? Nói
chung, chẳng ĺa nhân quả. Nhân quả ấy do chính ḿnh tạo;
chính ḿnh đă tạo cái nhân th́ chính ḿnh phải gánh lấy quả
báo. Phật, Bồ Tát đối với quư vị cũng
chẳng thể làm ǵ được! Ắt phải sám trừ
sạch nghiệp chướng, tập khí. Sau khi sám trừ,
Phật, Bồ Tát mới có thể giúp đỡ. A Di
Đà Phật có thể phân thân giáo hóa hết thảy chúng
sanh trong thế giới Cực Lạc, v́ sao chẳng dạy
dỗ trong thế giới của chúng ta? Chúng ta nghiệp
chướng quá nặng, đức Phật có thị hiện
dạy ta hay không? Có! Hạng người nào? Người thật
sự tu tập, có phước báo, nghiệp chướng
nhẹ nhàng! C̣n đối với kẻ nghiệp chướng
nặng nề th́ chẳng được, v́ sao? Kẻ ấy
chẳng tiếp nhận, chẳng tôn trọng. [Nếu có
trường hợp nào mà] Phật, Bồ Tát mỗi ngày giảng
nói với kẻ ấy, mỗi ngày đều hiện thân
cho kẻ ấy thấy, không được rồi, ma đấy!
Phải nghĩ trọn hết các phương pháp để
đuổi ma đi, [hiện tượng ấy] bất b́nh
thường! Xă hội cũng chẳng chấp nhận. Chẳng
phải là Phật, Bồ Tát không đến, mà là duyên chưa
chín muồi, đôi khi có vài người duyên chín muồi [mới
thấy Phật, Bồ Tát], điều đó gọi là “Phật độ kẻ hữu
duyên”. Thật sự tin, chịu phát nguyện, chịu phát
Bồ Đề tâm, chịu phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, nguyện tâm khẩn thiết, sẽ có cảm ứng.
Trong nguyện tâm mà c̣n một tí tự tư tự lợi,
tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn th́ không
được rồi, chẳng có cảm ứng! Chúng tôi
cũng đă từng gặp những người có cảm
ứng, họ có những tập khí ấy hay chăng? Có chứ,
nhưng thường là mỏng nhẹ; họ có những tập
khí ấy, nhưng thời gian tương đối ngắn.
Thí dụ như nổi nóng, nổi giận một trận,
người ấy liền lập tức giác ngộ, hối
lỗi. Có người tức giận ba ngày hay cả tuần
chẳng thể hóa giải được, như vậy là
quá ư nặng nề! Phật, Bồ Tát muốn giúp quư vị,
quả thật cũng chẳng giúp được mảy
may nào! Do vậy, Phật độ chúng sanh cần phải
có thời tiết, nhân duyên; khi nào đến thời, các Ngài
nhất định sẽ tới. Thời tiết nhân duyên
chưa chín muồi, cầu cách nào cũng chẳng cầu được.
Thật sự cầu được, sẽ có họa hại
xảy tới! Không chỉ bất lợi cho bản thân quư
vị, mà c̣n bất lợi đối với gia đ́nh quư
vị, thậm chí bất lợi đối với toàn thể
xă hội. Phật, Bồ Tát có làm chuyện ấy hay chăng?
Chẳng làm chuyện ấy! Yêu ma, quỷ quái sẽ làm chuyện
ấy; chúng nó chỉ sợ quư vị chẳng loạn, Phật,
Bồ Tát chẳng như vậy. Trong kinh Đại Thừa
thường nói, Phật, Bồ Tát ở nơi đâu cũng
đều làm cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ. Quư
vị chẳng ưa thích Phật, Bồ Tát; Phật, Bồ
Tát sẽ chẳng đến, không phải là [khiến cho] quư
vị rất vui vẻ hay sao? Quư vị thấy các Ngài từ
bi lắm. Quư vị ưa thích Phật, Bồ Tát, các Ngài bèn
đến. Quư vị chán ghét, các Ngài sẽ không tới. Chắc
chắn là hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức,
chúng ta làm đệ tử Phật phải học tập Phật,
Bồ Tát điều này! Một người thật sự
chẳng v́ chính ḿnh, chẳng v́ gia đ́nh, khởi tâm động
niệm luôn v́ chúng sanh khổ nạn, v́ an định xă hội,
v́ ḥa b́nh thế giới, v́ chánh pháp được trường
tồn, đó là đúng! Những ǵ đáng nên buông xuống,
tự nhiên quư vị thảy đều buông xuống. Bất
luận là cuộc sống, công việc, đăi người,
tiếp vật, thân tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy
trần, đó gọi là “tâm tịnh,
ắt cơi Phật tịnh”. Tâm quư vị thanh tịnh, bất
luận ở nơi đâu cũng đều là Đồng
Cư Tịnh Độ.
“Cố
tuy đồng danh Đồng Cư, nhi thật hữu bất
đồng dă” (v́ thế, tuy cùng gọi là Đồng Cư,
nhưng thật ra chẳng đồng). Đây là nói rơ cơi
Phàm Thánh Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni Phật và cơi
Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc,
danh xưng tương đồng, nhưng trên thực tế,
sai biệt rất lớn, sai biệt là do chúng sanh mê hay ngộ.
Cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc,
chúng sanh giác ngộ, giác ngộ nhưng chưa chứng quả,
đó là ǵ? Giải ngộ, chưa buông tập khí phiền
năo xuống! [Chúng sanh trong] cơi Phàm Thánh Đồng Cư thuộc
thế giới Cực Lạc tuy chưa chứng ngộ, nhưng
được bổn nguyện và oai thần của A Di
Đà Phật gia tŕ, nên giống như chứng ngộ. Họ
thật sự chưa chứng ngộ, nhưng cũng gần
b́nh đẳng với người đă chứng ngộ,
gần giống như nhau. Nói “gần giống như nhau”,
đương nhiên chẳng phải là hoàn toàn như nhau. Phật
lực gia tŕ chẳng thể nghĩ bàn!
Chúng ta đọc tiếp:
“Như Yếu Giải vị
thử chi Đồng Cư viết” (như sách Yếu
Giải nói về Đồng Cư trong cơi này), đây là những
điều do Ngẫu Ích đại sư đă nói trong sách
Yếu Giải: “Do thật thánh
quá khứ hữu lậu nghiệp” (do bậc thật thánh
có nghiệp hữu lậu trong quá khứ). Thật là chân thật,
Tiểu Thừa Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả thật
sự đoạn phiền năo, sở chứng thuộc những
tầng cấp này, có thể đoạn tám mươi tám
phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, chứng quả Tu
Đà Hoàn trong Tiểu Thừa. Lại đoạn sáu phẩm
đầu trong tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc
thuộc tam giới, chứng Nhị Quả Tư Đà Hàm.
Những vị này chưa đoạn hết phiền năo tập
khí trong quá khứ. Đó là những địa vị chân thật.
“Quyền thánh” là các vị
như Văn Thù, Phổ Hiền, “đại quyền thị hiện chi Bồ Tát”
(các vị Bồ Tát đại quyền thị hiện). Văn
Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí, Địa Tạng đều
đă thành Phật trong kiếp lâu xa, nay đang trụ trong
thế gian này. Chúng ta biết, [các Ngài] nên dùng thân Bồ Tát để
độ, bèn hiện thân Bồ Tát, nên dùng thân Phật để
độ, bèn hiện thân Phật. Ḥa thượng Hư Vân
triều bái Ngũ Đài Sơn, trên đường đi
ngă bệnh, được một người ăn mày chăm
sóc. Người ăn mày ấy tên là Văn Cát, ở Ngũ
Đài Sơn, hai lần [ḥa thượng] ngă bệnh đều
gặp người ấy chăm sóc; về sau mới biết
người ấy là Văn Thù Bồ Tát giúp đỡ lăo ḥa
thượng Hư Vân đang bệnh tật. Nên dùng thân ăn
mày để độ, bèn hiện thân ăn mày để thuyết
pháp. Đó gọi là “đại
quyền thị hiện”. “Đại
từ bi nguyện”, xuất hiện trên thế gian, “cố phàm phu đắc dữ
thánh nhân đồng cư” (cho nên phàm phu được ở
chung với thánh nhân), những vị Tiểu Thừa A La
Hán, những vị Phật, Bồ Tát trong Đại Thừa
ở cùng một chỗ [với người phàm]. “Chí thật thánh hôi thân” (tới
khi bậc Thật Thánh diệt thân), những vị thánh giả
Tiểu Thừa khi đă hết thọ mạng, chúng ta nói
các Ngài văng sanh. “Quyền thánh cơ
tận” (cơ duyên ứng hiện của bậc quyền
thánh đă hết), nói thật ra, những vị Phật, Bồ
Tát đại quyền thị hiện chẳng nhập Niết
Bàn. Thời gian các Ngài trụ trong thế gian này dài hay ngắn
tùy thuộc chúng sanh ở nơi này có căn tánh [đáng độ]
hay không. Nếu căn cơ của chúng sanh ở nơi này
có thể độ, các Ngài sẽ ở lâu hơn một chút.
Nếu nơi này không có căn cơ để độ, các
Ngài sẽ rời đi.
Căn cơ đáng độ
là ǵ vậy? Tức là người có đủ sáu thứ tín
tâm như Ngẫu Ích đại sư đă giảng trong sách
Yếu Giải, có thể cảm động chư Phật,
Bồ Tát đại quyền thị hiện trong thế
gian này. Trong sáu thứ tín tâm ấy, thứ nhất là tin vào
chính ḿnh. Tin bổn tánh của chính ḿnh vốn lành, tin bổn
tánh của chính ḿnh là Phật, ta cũng vốn là Phật,
phải tin tưởng điều này. Ta là vị Phật mê
hoặc, chư Phật là những vị Phật rất gần
với giác ngộ, các Ngài đă chứng đắc vị Phật
viên măn trong tự tánh. Ta phải tin tưởng các Ngài, các
Ngài tới giúp đỡ ta, thành tựu ta, chỉ dạy
ta trở về tự tánh. Đấy là Tín Tha, [điều
thứ nhất là] Tín Tự, [điều thứ hai là] Tín
Tha. Thứ ba là Tín Sự, [thứ tư là] Tín Lư, có Sự, có
Lư; cuối cùng là Tín Nhân và Tín Quả. Đó là sáu thứ Tín.
Trọn đủ sáu thứ tín ấy, Phật, Bồ Tát tự
nhiên ứng hiện trong thế gian này, các Ngài phải giúp đỡ
quư vị! V́ sau khi quư vị đă có sáu thứ tín ấy,
cơ duyên quư vị đắc độ đă chín muồi.
Nếu sáu thứ tín ấy chẳng trọn đủ, nói
cách khác, trong một đời này, quư vị chẳng thể
vượt thoát lục đạo, chẳng thể vượt
thoát mười pháp giới. Phật, Bồ Tát tới nơi
đây, chủ yếu chẳng v́ quư vị mà tới, quư vị
là kẻ kèm thêm (hưởng ké)! Nếu quư vị có phước
báo ấy, sẽ được hưởng lây, gieo một
tí thiện căn, chẳng phải v́ độ quư vị mà
các Ngài xuất hiện. Nếu các Ngài đến thế gian
này, chắc chắn trong thế gian này có mấy người
[cơ duyên chín muồi], tối thiểu là có một người!
“Trong cửa nhà Phật, chẳng
bỏ một ai”, một người có căn cơ ấy,
các Ngài sẽ đến. Nếu hoàn chẳng có ai, các Ngài sẽ
không tới, phải hiểu đạo lư này! V́ sao có người
thấy, có kẻ chẳng thấy? Do đời đời
kiếp kiếp trong quá khứ có duyên học tập khác nhau.
Chúng ta xem tiếp, do v́
Thật Thánh diệt thân, đă qua đời rồi, cơ
duyên giáo hóa của bậc Quyền Thánh đă hết, “tiện thăng trầm thạc
dị, khổ lạc huyền thù, năi tạm đồng, phi
cứu cánh đồng dă” (liền thăng trầm rất
khác, sướng khổ khác biệt vời vợi, đó là
tạm thời đồng, chẳng phải là rốt ráo
đồng vậy). Ư nói cơi Đồng Cư của chúng
ta và cơi Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc
khác nhau. Chúng ta là tạm thời đồng, c̣n người
ta là rốt ráo đồng. Thế giới Cực Lạc có
lạc, chẳng có khổ; thế giới của chúng ta khổ
và lạc khác biệt vời vợi. Thế giới Cực
Lạc chỉ có tiến lên, chẳng có thoái chuyển. “Trầm” là thoái chuyển. Trong
thế gian này, nếu chúng ta chẳng chú tâm, cẩn thận,
rất có thể bị trầm luân trong địa ngục,
cũng có thể nói là ngă xuống tận đáy hang! Chúng ta
sanh lên cao hơn, con người sanh lên thiên đạo. Thiên
đạo có Dục Giới Thiên; phân chia đại lược
th́ Dục Giới Thiên có sáu tầng, nếu chia tỉ mỉ
sẽ chẳng thể nói trọn hết, nhất định
phải hiểu điều này! Nếu có thể chế ngự
Dục, Dục là ǵ? Tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghỉ. Dùng ǵ để chế phục? Dùng công phu
định lực. Quư vị thật sự tu định,
tâm định là thanh tịnh, đối với tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ chẳng động
tâm. Chẳng phải là thật sự không động tâm, mà
là do công phu định lực chế ngự. Nếu lúc Định
mất đi, những phiền năo sẽ lại hiện tiền,
từ tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ,
tham, sân, si, mạn lại dấy lên, phiền năo hiện tiền.
Do vậy, trong lục đạo, đúng là thăng trầm
bất định. Sanh lên trời, hưởng hết phước
trời, thường đọa xuống địa ngục
rất nhiều, nhất là Sắc Giới Thiên và Vô Sắc
Giới Thiên, hầu như đều đọa lạc tam
đồ. Dục Giới Thiên đỡ hơn một chút,
Dục Giới Thiên đọa vào nhân đạo v́ họ trèo
không cao lắm!
Lại xem tiếp đoạn
kế đó: “Hựu thiên
nhưỡng chi gian, kiến văn giả thiểu. Hạnh
hoạch kiến văn, thân cận, bộ xu giả thiểu”
(Lại nữa trong ṿng trời đất, người được
thấy nghe [thánh nhân] th́ ít. Người được may
mắn thấy nghe bèn thân cận, hướng theo lại ít).
Ở vùng phụ cận của những đạo tràng ấy,
nếu chúng ta ḍ hỏi thôn dân, thôn dân phụ cận Ngũ
Đài Sơn đă từng gặp Văn Thù Bồ Tát hay chưa?
Có! Thật sự trông thấy. Sau khi vừa thấy, liền
chẳng c̣n nữa. Có t́m cũng chẳng được, bèn
biết là Bồ Tát hiện thân. Chúng tôi từng triều
bái núi Kê Túc[7], núi Kê Túc là đạo tràng của tôn giả Ca Diếp,
[tức là đạo tràng của bậc] A La Hán! Trên thực
tế, Ngài là Bồ Tát, có ai đă gặp chưa? Có! Tôi c̣n
nghe nói có lữ khách từ Đài Loan đến văn cảnh,
lạc đường, trong khi đang lo lắng, gặp một
cụ già chống gậy đi ở phía trước, bèn
thưa hỏi, được cụ chỉ đường,
bảo hăy đi theo đường nào, quay đầu nh́n
lại, chẳng thấy cụ già đâu nữa. Do vậy,
mọi người nghĩ cụ già có thể là tôn giả
Đại Ca Diếp xuất hiện chỉ đường,
khiến cho người ấy đến được
Hoa Thủ Môn[8]. Thường có những chuyện như vậy, thường
xảy ra. Người thấy nghe ít ỏi, người
được may mắn thấy nghe, tuy có may mắn thấy,
nhưng thấy mà chẳng biết, đợi đến
khi quay đầu, chẳng thấy nữa, muốn t́m cũng
chẳng t́m được, muốn hỏi cũng chẳng
hỏi được. Đây là sự thật, chúng tôi tin
tưởng thật sự có t́nh h́nh này.
“Hựu
Phật thế thánh nhân túng đa, như trân, như thụy,
bất năng biến măn quốc độ, như chúng
tinh, vi trần” (Lại nữa, thuở Phật tại
thế, thánh nhân dẫu nhiều, vẫn giống như vật
quư, như điềm lành, chẳng thể đầy khắp
cơi nước như các ngôi sao, vi trần). Chẳng hạn
như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, bậc
thánh nhân nhiều, Bồ Tát đông đảo, A La Hán đông
đảo, những vị này đều giúp Thích Ca Mâu Ni Phật
giáo hóa chúng sanh, trong kinh chẳng nói như thế này hay sao?
“Nhất Phật xuất thế,
thiên Phật ủng hộ” (Một vị Phật ra đời,
ngàn vị Phật ủng hộ). Vị Phật ấy có
duyên với thế gian này, bèn dùng thân Phật, hoặc dùng
thân phận Bồ Tát, hoặc dùng thân phận tổ sư
đại đức đến thế gian này. Nhiều vị
Phật, Bồ Tát cùng đến với vị Phật ấy,
có vị làm học tṛ, có vị làm hộ pháp, có vị làm
quần chúng, thị hiện các thân phận khác nhau, theo Ngài
học tập, họ được gọi là Ảnh Hưởng
Chúng. Những vị ấy có trí huệ, có phước
đức, đều tới thân cận vị tôn giả
này, khiến cho đông đảo quần chúng trông thấy,
dấy ḷng kính ngưỡng vị tôn giả ấy, chủng
tử Phật pháp bèn gieo trong A Lại Da thức điền.
Giống như diễn tuồng, người này đóng vai
chánh, nhất định phải có rất nhiều người
phụ diễn th́ vở tuồng ấy mới diễn hay
được! Nếu một ḿnh người ấy tới,
không được, nhất định phải là một
nhóm người. Phật pháp và thế gian pháp có cùng một
đạo lư, thật sự tham thấu th́ pháp thế gian
vốn là Phật pháp, thế gian và xuất thế gian chẳng
hai! Đó là đúng. V́ thế, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại
thế, thánh nhân tuy đông, nhưng so với tỷ lệ
nhân số trên cả thế giới vẫn quá ít, vẫn giống
như vật báu, điềm lành.Vật báu và điềm lành
rất hiếm hoi, chẳng thể đầy ắp trọn
khắp cả cơi nước như các ngôi sao, như vi trần
được! Đấy là nói phàm phu đông đảo,
kẻ mê mất tự tánh đông lắm!
Chúng ta đọc tiếp:
“Hựu cư tuy đồng,
nhi sở tác, sở biện, tắc huưnh bất đồng”
(lại nữa, tuy cùng ở, nhưng việc làm rất khác
biệt). So sánh hai thế giới, phàm phu trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư của thế gian này mỗi ngày làm ǵ? Tạo
nghiệp, tạo nghiệp luân hồi, tạo nghiệp tam
đồ, họ thật sự làm! Bên thế giới Cực
Lạc, tuy là phàm phu trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, văng
sanh trong ba phẩm Hạ, nghiệp chướng tập khí
vẫn c̣n rất nặng, nhưng tới Tây Phương Cực
Lạc thế giới, bèn đi học, mỗi ngày Phật,
Bồ Tát dạy người ấy, chỉ dạy người
ấy, ngoài chuyện này ra, chuyện ǵ cũng chẳng có.
Tới thế giới Cực Lạc không cần làm việc,
nơi đó chẳng làm lụng, các ngành nghề đều
chẳng có, toàn là giáo dục. A Di Đà Phật là hiệu
trưởng, chư Phật, Bồ Tát đều là giáo sư
đến dạy học. Trừ chuyện này ra, chẳng
nghe nói thế giới Cực Lạc có tiệm buôn, chẳng
nghe thế giới Cực Lạc có chánh phủ. Nơi khác
có chánh phủ, chứ thế giới Cực Lạc chẳng
có quốc vương. [Trong các thế giới khác], cơi trời
có thiên vương, trong thế giới Cực Lạc chẳng
hề nghe nói có đại vương [hay các thiên vương],
chẳng có! Thế giới Cực Lạc chỉ có Phật,
chỉ có Bồ Tát. Bồ Tát và A La Hán đều là học
tṛ. Chúng tôi nghĩ: Trên thực tế, thế giới Cực
Lạc giống như một viện đại học Phật
giáo do chư Phật Như Lai cùng nhau sáng lập, mời A
Di Đà Phật làm hiệu trưởng, mười
phương chư Phật, Bồ Tát thường tới
thế giới Cực Lạc để dạy học, [Cực
Lạc] là một nơi như vậy đó! Quư vị ở
nơi đó là học tập cho đến khi tốt nghiệp,
tốt nghiệp là chứng đắc viên măn Bồ Đề,
chẳng phải do A Di Đà Phật gia tŕ, mà do chính quư vị
chứng đắc. Sau khi chứng đắc, quư vị có
ở lại thế giới Cực Lạc hay không? Chẳng
ở! Quư vị phổ độ chúng sanh trọn pháp giới
hư không giới, giúp đỡ hết thảy những kẻ
hữu duyên với quư vị. Quư vị giống như ba mươi
hai ứng thân của Quán Âm Bồ Tát, nên dùng thân ǵ để
đắc độ, bèn hiện thân ấy. Biết phải
dạy họ pháp môn ǵ, quư vị sẽ dạy pháp môn ấy.
Chúng sanh yêu thích khác nhau, nhưng tới cuối cùng, nhất
định hướng dẫn về Cực Lạc. Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa nhằm dẫn dắt, đến cuối cùng,
thưa chư vị, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng
pháp môn thảy đều trở về Tịnh Độ.
V́ sao biết? Nh́n từ kinh Hoa Nghiêm. Quư vị thấy hàng Bồ
Tát, La Hán văng sanh thế giới Hoa Tạng, các Ngài tu học
các pháp môn bất đồng, vô lượng pháp môn, học
khác nhau, cuối cùng đều về thế giới Hoa Tạng.
Sau khi tới thế giới Hoa Tạng, chắc chắn là
nghe lời hai vị đại Bồ Tát Văn Thù và Phổ
Hiền, sang thế giới Cực Lạc tham phỏng A Di
Đà Phật, tiếp nhận giáo huấn của A Di
Đà Phật, triệt ngộ tâm tánh, chứng đắc
viên măn Phật quả trong thế giới Cực Lạc, ở
chỗ của A Di Đà Phật. Từ chỗ này, chúng ta
thấy thế giới Cực Lạc thù thắng, thấy
Phật pháp đại viên măn. Việc làm rất khác biệt!
Lại xem đoạn
văn kế tiếp: “Án Yếu
Giải nghĩa”, [tức là xét theo] nghĩa thú được
giảng trong sách Yếu Giải, “thử độ phàm thánh chi đồng cư tốn
ư Cực Lạc giả hữu tứ”, [nghĩa là]
so ra thấy [Đồng Cư trong Sa Bà] thua kém, “tốn” (遜) là thua kém thế giới Cực Lạc. Tối thiểu
có bốn điều thua kém thế giới Cực Lạc.
Thứ nhất: “Tạm đồng,
thử độ Tiểu Thừa Sơ, Nhị, Tam Quả,
chứng A La Hán, tiện nhập tịch diệt” (Tạm
đồng: Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả Tiểu
Thừa trong cơi này chứng A La Hán liền nhập tịch
diệt). Trước khi các Ngài chứng A La Hán, bậc Sơ
Quả, Nhị Quả, Tam Quả đều ở trong lục
đạo, ở trong nhân gian hay trên cơi trời. Chứng
đắc A La Hán bèn ra đi, vượt thoát lục đạo,
vào tứ thánh pháp giới, nhập tịch diệt. Nhập
tịch diệt là vào trong tứ thánh pháp giới, chẳng ở
chung với chúng ta. Ở chung với chúng ta chỉ là Sơ,
Nhị, Tam Quả. “Đại
Quyền Bồ Tát, độ sanh cơ tận, tiện bất
phục thị hiện” (Đại Quyền Bồ Tát cơ
duyên hóa độ chúng sanh đă hết bèn chẳng thị
hiện nữa), vị này cũng ra đi. Trong thế gian
này, Đại Quyền Bồ Tát có hai phương cách ở
chung với chúng ta: Thứ nhất là Ứng Thân, giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có cha mẹ, được
sanh ra, sống trong thế gian này vài chục năm, sanh tử
tự tại, chẳng phải do nghiệp lực, các chúng
sanh hữu duyên nhờ Ngài mà đắc độ. Nếu
chẳng có hạng người ấy, khi Ngài đến thế
gian này, phải biết hết thảy chúng sanh đáng độ
đều đă độ, chẳng c̣n ai chưa độ,
nên Ngài ra đi. Thích Ca Mâu Ni Phật bảy mươi chín
tuổi bèn viên tịch, chẳng ở chung với chúng ta. V́
thế, sự “ở chung” này là tạm thời, chẳng phải
là rốt ráo. “Cố dữ thử
độ phàm phu chỉ thị tạm thời đồng
cư, phi cứu cánh dă. Tại bỉ tịnh Đồng Cư
độ, tắc khả dữ chư đại Bồ
Tát câu hội nhất xứ, trực chí thành Phật” (v́
thế chỉ là tạm thời ở chung với phàm phu trong
cơi này, chẳng phải là rốt ráo. Trong cơi Đồng Cư
thanh tịnh ấy, bèn có thể cùng ở một chỗ với
các vị đại Bồ Tát măi cho đến khi thành Phật).
Khác nhau! Chúng ta sanh về nơi đó của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, tuy là hạ hạ
phẩm văng sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, quư vị hằng
ngày ở chung với chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ
Tát, măi cho đến lúc quư vị chứng đắc đến
rốt ráo Phật quả, các Ngài sẽ trở về Thường
Tịch Quang, chẳng ở chung nữa, mà trở về Thường
Tịch Quang. Sau khi trở lại Thường Tịch
Quang, nếu những người trong cơi Đồng Cư
của thế giới Cực Lạc có duyên với quư vị,
quư vị sẽ từ Thường Tịch Quang trở về
giúp đỡ họ, đến đi tự tại! Phật
độ kẻ hữu duyên. Duyên có hai thứ, có thiện
duyên và ác duyên. Bất luận thiện hay ác, chỉ cần
có duyên, khi họ chịu tiếp nhận Phật pháp, quư vị
sẽ tự nhiên hiện thân giúp đỡ họ, thành tựu
bọn họ. Đấy là chỗ khác nhau thứ nhất.
Thứ hai, “nan
ngộ, tuy hữu thánh giả hiện cư thử độ,
đản bất dị kiến văn thân cận” (khó
gặp; tuy có thánh giả thị hiện sống trong cơi
này, nhưng chẳng dễ ǵ thấy, nghe, thân cận). Thật
vậy, thế giới này có Phật, Bồ Tát, A La Hán ở
trên địa cầu này, nhưng phàm phu chúng ta chẳng dễ
ǵ gặp được! Chẳng có duyên phận đặc
thù, sẽ không gặp được. Đó là sự thật,
chúng ta phải hiểu rơ. “Nhi tại
Cực Lạc tắc giai như sư, như hữu, triêu
tịch đồng tụ dă” (nhưng trong Cực Lạc,
[thánh nhân] như thầy, như bạn, sáng tối cùng tu họp).
Thế giới Cực Lạc khác hẳn, trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư của thế giới Cực Lạc, quư
vị và thánh nhân suốt ngày từ sáng đến tối ở
cùng một chỗ, thân cận, chẳng tách ĺa. Những vị
ấy quả thật là thầy, mà cũng là đồng học.
Thầy của thế giới Cực Lạc là A Di Đà Phật
[và thập phương chư Phật đến thế giới
dưới thân phận Bồ Tát], các Ngài đến thế
giới Cực Lạc giúp đỡ chúng ta, giống
như mang thân phận trợ giáo, chúng ta có thể sáng tối
cùng tụ họp, chẳng phải là ngắn ngủi, tạm
bợ, mà là sống cùng nhau, học tập cùng nhau. Trước
khi thành Phật, trong thế giới Cực Lạc, công việc
của quư vị là học tập, các Ngài sẽ giúp đỡ
quư vị. Đây là chỗ khác nhau thứ hai!
Thứ ba: “Hy thiểu” (hiếm hoi). Thế
giới này “thánh giả như trân,
như thụy, hy hữu nan phùng” (bậc thánh như vật
quư, như điềm lành, hiếm có, khó gặp). V́ sao thế
gian này ít như thế? Điều này có liên quan đến
nghiệp cảm của chúng sanh, đó mới là nguyên nhân thật
sự. Chúng sanh ưa thiện, chuộng đức, quư vị
sẽ gặp được những người hiếm
có, khó gặp, họ sẽ dạy quư vị. Nếu quư vị
chẳng cảm thấy hứng thú đối với luân
lư, đạo đức, và thánh học, mà cảm thấy
hứng thú đối với tài, sắc, danh vọng, ăn
uống, ngủ nghỉ, tiếng tăm, lợi dưỡng
trong thế gian này, Phật, Bồ Tát sẽ không đến.
Phật, Bồ Tát chẳng có hứng thú đối với
những thứ đó; đó là tạo nghiệp. Quư vị ưa
thích những thứ ấy, cũng có người tới gia
tŕ và giúp đỡ quư vị, ai vậy? Yêu ma quỷ quái.
Chư vị đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ hiểu! Bốn
loại yêu ma quỷ quái lớn ưa thích những thứ đó,
chúng sẽ đến. Tuy quư vị đạt được
một chút vui sướng, tự nghĩ là vui sướng,
trên thực tế là sự kích thích, chẳng phải là khoái
lạc thật sự. Tôi giảng kinh, thường dùng tỷ
dụ hút thuốc phiện. Khoái lạc ngũ dục lục
trần trong thế gian giống như hút thuốc phiện,
nó là một thứ kích thích ngắn ngủi, tạm bợ
trong sát-na, hậu hoạn vô cùng, khổ chẳng thể nói
nổi. Đó chẳng phải là chân lạc, mà là mê hoặc,
điên đảo của người đời. Do vậy,
bậc thánh nhân đến thế gian này, cơ hội cũng
rất ít. Thế gian này có mấy kẻ lương thiện,
hiếu học, các Ngài sẽ đến. Thời gian các Ngài
đến [thế giới này] cũng rất ngắn ngủi,
tạm bợ, đến để chỉ dạy những
người hữu duyên. Kẻ hữu duyên học rất
nhanh, học sơ sơ đă đi vào nề nếp, các Ngài
bèn rời đi, chúng ta ngay cả mong được hưởng
ké một chút cũng chẳng được! Phải hiểu
rơ đạo lư ở chỗ này, v́ bản thân chúng ta chưa
phát tâm. Nếu thật sự phát tâm học tập, Phật,
Bồ Tát sẽ thường trụ trong thế gian. Chính ḿnh
vẫn tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng,
đương nhiên các Ngài phải ra đi sớm, các Ngài chẳng
mảy may lưu luyến thế gian này! Chúng ta biết các
Ngài hiện thân, người ta chứng đắc thanh tịnh
Pháp Thân; theo kinh Hoa Nghiêm, trong Viên Giáo, bậc Sơ Trụ
trở lên đều có năng lực này. Phẩm Phổ Môn
nói tới ba mươi hai ứng thân, thảy đều có
năng lực sau đây: Nên dùng thân Phật để độ,
bèn hiện thân Phật. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo hiện
thân Phật, Ngài là chân Phật, chẳng phải là giả Phật.
Ngài trụ nơi đâu? Trọn khắp pháp giới hư
không giới và Ngài là một Thể, quư vị nói xem Ngài trụ
nơi đâu? V́ vậy, bất luận nơi chốn nào,
thời gian nào, chỉ cần có người thật sự
khởi tâm động niệm mong học Phật, Ngài liền
thị hiện.
Mỗi chúng sanh chúng ta
phải biết: Quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung; thời
gian vô thỉ, vô chung, không ǵ lớn lao lọt ra ngoài, không ǵ
nhỏ nhặt chẳng gồm trong. “Thỉ chung” là nói tới thời gian. “Thời - không” (thời gian,
không gian) là Pháp Thân; thời - không là Tánh Đức của bậc
kiến tánh, là Pháp Thân của người ấy. V́ vậy,
Pháp Thân trọn khắp hết thảy mọi nơi, hết
thảy mọi lúc; bất luận chúng sanh nào chỉ cần
có cảm, lập tức bèn ứng, chẳng có đến đi,
hiện diện ngay trong hiện tiền. V́ vậy, Đại
Thừa nói “tức tại đương
hạ” (ở ngay trong lúc này), câu ấy là thật, là lời
thật, ngay trong hiện tại. Chẳng có quá khứ, vị
lai, chẳng có cơi này hay phương khác. Thời - không cũng
chẳng tồn tại. Khi mê, có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, thời - không; khi giác ngộ
chẳng có. Trong Bách Pháp Minh Môn Luận, [Thiên Thân] Bồ Tát
đă giảng chân tướng sự thật này rất rơ
rệt. Trong bách pháp, thời gian và không gian là Bất Tương
Ứng Hành Pháp. Người hiện thời gọi Bất
Tương Ứng Hành Pháp là “khái niệm trừu tượng”,
chẳng phải là sự thật, mà là khái niệm trừu
tượng. Chúng ta phải nhận biết rơ ràng, phải
hiểu minh bạch, Bồ Tát ở đâu? Ngay trong hiện
tiền! Chưa từng rời khỏi chúng ta, mà chúng ta
cũng chưa hề rời khỏi Ngài; bất quá, chúng ta
mê tự tánh nên chẳng thấy! Nếu giác ngộ tự tánh,
quư vị sẽ biết chưa hề rời khỏi.
“Nhi Cực
Lạc tắc kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ Xứ,
kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở
năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ thuyết” (nhưng Cực Lạc th́
trong ấy có nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ, số
ấy rất nhiều, chẳng thể tính toán mà ḥng biết
được, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ). Đoạn này là kinh văn trong kinh Di
Đà do đức Phật nói. Tây Phương Cực Lạc
thế giới thánh hiền đông đảo, toàn là đại
thánh, chẳng phải là tiểu thánh, Nhất Sanh Bổ Xứ
mà! Quán Thế Âm Bồ Tát giống như Di Lặc Bồ
Tát, trong tương lai, A Di Đà Phật lăo nhân gia duyên đă
tận, Ngài sẽ thoái vị, trở về Thường Tịch
Quang, Quán Âm Bồ Tát bèn thay thế, kế tục Ngài thành Phật
trong thế giới Cực Lạc. Khi Quán Âm Bồ Tát duyên
tận, trở về Thường Tịch Quang, Đại
Thế Chí Bồ Tát bèn kế tục Quán Âm Bồ Tát. Do vậy,
thế giới ấy chỉ có Chánh Pháp, chẳng có Tượng
Pháp, cũng chẳng có Mạt Pháp. Trong thế gian này của
chúng ta, pháp vận của đức Phật có Tượng
Pháp và Mạt Pháp, thế giới Cực Lạc chẳng có.
Thế giới Cực Lạc vĩnh viễn có Phật trụ
thế, từng vị kế tục nhau. Quư vị thấy
lần này, Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, vị Phật
kế tiếp là Di Lặc Bồ Tát sẽ giáng thế thành
Phật nhằm khi nào? Kinh Di Lặc Hạ Sanh cho biết là
năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, Di Lặc
Bồ Tát mới giáng thế. Trong khoảng thời gian dài
như vậy, thế gian này chẳng có Phật, không có Phật
giáo, đáng thương thay! Chúng sanh tạo nghiệp. Phật,
Bồ Tát vẫn từ bi, có người thay mặt Phật;
trong thời gian dài như thế, ai thay mặt? Địa
Tạng Vương Bồ Tát. Hiện thời là thời kỳ
Mạt Pháp của Thích Ca Phật, Địa Tạng Bồ
Tát đă nhận nhiệm vụ, đă thay mặt Phật.
Địa Tạng nghĩa là ǵ? Phải biết đó là hiếu
thảo cha mẹ, tôn trọng thầy. Chỉ cần chúng sanh
thật sự hiếu thuận cha mẹ, tôn sư trọng
đạo, người ấy sẽ có duyên gặp gỡ thánh
hiền. Nếu chẳng có tâm nguyện ấy, suốt
đời chẳng gặp được. Dẫu gặp
gỡ, cũng chỉ là trong sát-na đă trôi qua (chẳng c̣n
gặp gỡ nữa), chẳng được thánh hiền
giáo huấn. Do vậy biết: Tâm thái trọng yếu lắm,
tâm thái quyết định hết thảy, pháp thế gian
và xuất thế gian đều chẳng có ngoại lệ.
Trong thế giới Cực
Lạc đă là Nhất Sanh Bổ Xứ, là Đẳng Giác
Bồ Tát, đấy là địa vị Bồ Tát tối
cao, lại tiến cao hơn là Cứu Cánh Viên Măn Phật (quả
vị Phật rốt ráo viên măn), người như vậy
đông lắm! Nhiều đến mức độ nào? Chẳng
có cách nào tính toán, chỉ có thể dùng “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thuyết” (vô
lượng vô biên A-tăng-kỳ để nói). A-tăng-kỳ
(Asamkhya) là đơn vị danh xưng, là một trong mười
con số lớn của Ấn Độ. Bao nhiêu A-tăng-kỳ?
Vô lượng vô biên, huống chi những vị thấp hơn
Đẳng Giác càng nhiều! Thập Địa Bồ Tát, Thập
Hạnh Bồ Tát, Thập Hồi Hướng Bồ Tát, Thập
Trụ Bồ Tát, chẳng biết là bao nhiêu! Hết thảy
những vị ấy đều là học tṛ của A Di
Đà Phật. Đẳng Giác Bồ Tát là trợ giáo của
A Di Đà Phật. Trên thực tế, A Di Đà Phật hằng
ngày chẳng rời khỏi quư vị, mỗi ngày đích thân
giảng kinh, thuyết pháp cho quư vị. Quư vị thấy Đẳng
Giác Bồ Tát nhiều ngần ấy ở bên cạnh giúp
đỡ quư vị, lẽ nào quư vị chẳng thành tựu?
Đâu có đạo lư ấy! Chúng ta ở trong thế gian
này, thân cận một vị Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn c̣n
chẳng có duyên phận ấy, t́m măi không ra. Trong thế giới
Cực Lạc, thân cận Đẳng Giác Bồ Tát đông
ngần ấy. Không nh́n vào chuyện ǵ khác, chỉ nh́n riêng điều
này, chúng ta phải nên khăng khăng một mực tu Tịnh
Độ, biết văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới trong một đời nhất định chứng
đắc Phật quả viên măn rốt ráo. Nếu chẳng
đến đó, bất luận tu học pháp môn nào, phiền
năo tập khí chưa đoạn được, vẫn không
thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nghĩ đến
luân hồi đáng sợ, hăy nên học theo pháp sư Oánh Kha,
dẫu bỏ cái mạng này cũng phải cầu sanh Tịnh
Độ. Có thể thành công hay không? Pháp sư Oánh Kha làm mẫu
cho chúng ta thấy, Sư thật sự niệm được
A Di Đà Phật hiện đến. Sau khi niệm ba ngày, A
Di Đà Phật thật sự dẫn Sư đi.
Lại xem điều
thứ tư: “Sở tác bất
đồng. Tại thử độ, thánh giả hàm du
thánh vực” (Việc làm khác nhau. Trong cơi này, bậc thánh đều
ngao du trong cơi thánh). Ở nơi đây, trong cơi Đồng
Cư, Phật, Bồ Tát tuy trụ trong thế gian này, nhưng
đối với nơi cư trụ [của các Ngài, kinh
điển] đă nói rất hay, “cảnh
chuyển theo tâm”. Các Ngài là bậc minh tâm kiến tánh, tự
nhiên các Ngài trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, các Ngài đă
chuyển biến [cơi Phàm Thánh Đồng Cư] thành cơi Thật
Báo Trang Nghiêm]. Chúng ta ở chung với các Ngài, nhưng chúng
ta là tâm luân hồi, nên thấy đại địa là uế
độ, lục đạo trong uế độ, tâm chúng
ta chẳng thanh sạch. Chớ nên chẳng biết đạo
lư này! “Cảnh chuyển theo tâm”.
Chúng ta ở trong thế gian này có tai nạn, nhưng các Ngài
chẳng có tai nạn. Bất luận chỗ nào, các Ngài ở
nơi đó quả thật giống như thế giới
Cực Lạc. Báo độ của các Ngài do vô lượng
trân bảo hợp thành, tuyệt đối chẳng phải
là bùn cát, cây cối, hoa, cỏ cũng đều là trân bảo,
vĩnh hằng không thay đổi, chẳng giống như
chúng ta ở nơi đây: Mùa Xuân mọc lên, mùa Hạ tăng
trưởng, mùa Thu thâu hoạch, mùa Đông ẩn tàng, bốn
mùa biến hóa. Cơi Thật Báo của Bồ Tát chẳng biến
hóa, hết thảy vạn vật hóa hiện, hóa sanh theo ư
niệm. “Việc làm khác nhau”:
Những vị thánh giả đều dạy học. “Nhi chúng sanh luân hồi lục
đạo, thăng trầm vô định” (nhưng chúng
sanh luân hồi trong lục đạo, thăng trầm chẳng
nhất định), tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi,
chịu báo luân hồi, đấy là điều chắc chắn!
Chúng ta khởi tâm động niệm, nghĩ ǵ? Nhớ ǵ?
Nói ǵ? Tạo ǵ? Nếu chúng ta phản tỉnh, quư vị sẽ
biết đúng như kinh Địa Tạng đă dạy:
“Vô bất thị tội, vô bất
thị nghiệp” (không ǵ chẳng phải là tội, không
ǵ chẳng phải là nghiệp). Tội là ǵ? Nghiệp là ǵ?
Chúng ta suy tưởng, nhớ nghĩ, tạo tác, hoàn toàn trái
nghịch tự tánh. Đó là tội nghiệp.
Trong Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư đă quy nạp
Tánh Đức thành bốn điều. Tánh Đức
cũng là “vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ thuyết”, nói chẳng hết, quy nạp
thành bốn điều. Đấy là bốn cột trụ
của Tánh Đức, chúng ta hăy nghĩ xem chính ḿnh có tương
ứng với những điều ấy hay không.
1) Điều thứ nhất là “tùy duyên diệu dụng”. Chúng
ta là tùy duyên, chẳng phải là diệu dụng. Chúng ta tùy duyên
khởi dụng toàn là phiền năo, toàn là tội nghiệp.
Tùy duyên thảy đều áp dụng vào luân hồi, tâm luân
hồi, ư niệm luân hồi, dùng trật lất rồi! Diệu
dụng là ǵ? Trong tùy duyên, xa ĺa vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, bèn là “diệu”. Trong tùy duyên chẳng
có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bèn
là Phật. Có vọng tưởng, nhưng chẳng có phân
biệt và chấp trước th́ là Bồ Tát. Có vọng
tưởng và phân biệt, nhưng chẳng có chấp
trước, là A La Hán. Nay chúng ta toàn bộ đều có, trong
tùy duyên có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
đấy là lục đạo phàm phu, như vậy sẽ
chẳng diệu, chúng ta làm tương phản [với thánh
nhân].
2) Điều thứ hai, “oai nghi hữu tắc” (oai nghi
đúng pháp tắc), đó là cuộc sống trên thế gian
này, những điều biểu diễn đều nhằm
nêu gương tốt nhất cho hết thảy đại
chúng; đó là Phật, Bồ Tát. Biểu diễn điều
ǵ? Diễn xuất luân lư, diễn xuất đạo đức,
diễn xuất nhân quả, diễn xuất giáo huấn của
chư Phật, v́ người khác diễn nói. “Diễn” là biểu diễn, làm
gương tốt cho người khác xem, giúp đỡ
chúng sanh giác ngộ. Đấy là điều thứ hai.
3) Điều thứ ba, “nhu ḥa chất trực”. Đây
là nói trong cuộc sống, công việc, xử sự, đăi
người, tiếp vật hằng ngày đều phải
có thái độ ôn ḥa, đặc biệt là trong thời đại
hiện tại. Trong thời đại này, những chúng
sanh trên địa cầu hiển hiện như thế nào?
Tự tư tự lợi, bạo lực t́nh dục, giết,
trộm, dâm, dối, họ đang biểu diễn những
thứ ấy. Quư vị thấy tư tưởng, ngôn ngữ,
hành vi của họ đáng ngán quá! Trái nghịch một
trăm tám mươi độ với Tánh Đức. Nói
cách khác, sự tạo tác ấy chắc chắn dẫn đến
ngày tàn của thế giới, đi theo con đường
hủy diệt, hướng đến A Tỳ địa
ngục, thôi rồi! Đáng sợ quá!
4) Điều cuối cùng, “đại chúng sanh khổ”
(chịu khổ thay cho chúng sanh). Con người hiện thời
nghĩ theo kiểu nào? Tổn người, lợi ḿnh, hoàn
toàn tương phản với “chịu khổ thay cho chúng
sanh!” Hăy nên bỏ ḿnh v́ người, đó là đúng. Quyết
định chớ nên làm chuyện tổn người lợi
ḿnh.
Trong Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ đại
sư đă quy nạp Tánh Đức thành bốn điều
như vậy.
Đức Phật thường
giảng Thập Thiện Nghiệp, Tánh Đức là Thập
Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp và Tứ Đức
trong Hoàn Nguyên Quán hoàn toàn tương ứng. Chúng ta có thực
hiện những ǵ kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
đă dạy hay không? Có thật sự làm hay không? Thật sự
làm, sẽ là nghiêm túc học Phật, y giáo phụng hành. Có những
người muốn làm, nhưng chẳng biết phải
thực hiện từ chỗ nào! Tại Trung Quốc, xét
trên cơ bản, lời tổ tiên dạy hoàn toàn phù hợp
Phật pháp. Chúng ta hăy khởi sự từ sự giáo học
đơn giản, dễ hiểu của tổ tiên, th́ sẽ
làm được chẳng khó! Đệ Tử Quy dạy chúng
ta hiếu thân, tôn sư, đó là giáo dục luân lư, giáo dục
đạo đức. Hơn nữa, đó là giáo dục cơ
sở cần phải tu, con người chẳng thể không
học! Cảm Ứng Thiên là giáo dục nhân quả, phải
thời thời khắc khắc ghi nhớ trong ḷng: Thiện
có thiện quả, ác có ác báo, nhân duyên quả báo chẳng
sai sót mảy may! Quư vị thật sự tham thấu th́ mới
tin tưởng, mới biết đoạn ác tu thiện,
sám trừ nghiệp chướng trọng yếu lắm! V́
sao ngày nay quư vị học Phật chẳng có tiến bộ?
Chắc cũng có người nói v́ sao tiến bộ chậm
thế? Đều là do nghiệp chướng của quư vị
quấy phá, nghiệp chướng chướng ngại quư
vị. Đó là nhân tố thứ nhất. Oán thân trái chủ
đến gây rối, cũng tới chướng ngại quư
vị; đó là nhân tố thứ hai. Chỉ cần tiêu trừ
nghiệp chướng của chính ḿnh, oán thân trái chủ bên
ngoài sẽ rất dễ hóa giải. Nghiệp chướng
chẳng trừ, oán thân trái chủ sẽ không tha quư vị,
quư vị vẫn tiếp tục làm ác. Giả danh học Phật,
dùng Phật pháp để che đậy [sự xấu xa của
chính ḿnh], người ta càng coi thường quư vị, rắc
rối ở chỗ này.
Đă có căn bản Nho và Đạo
th́ Thập Thiện Nghiệp cũng sẽ rất dễ
làm được. Cổ nhân học Phật, người trong
một trăm năm trước, chúng ta nói là một thế
kỷ, học Phật trong một trăm năm trước,
người học Phật thành tựu nhiều! V́ sao? Họ
được hưởng sự giáo dục ấy, từ
nhỏ đă được cha mẹ, người lớn
dạy! Tôi nhớ thuở nhỏ, chúng tôi sanh trưởng
tại nông thôn, trẻ con chơi đùa với nhau, cũng
có lúc căi cọ, cũng có lúc căi lẫy ồn ào, người
qua đường trông thấy, bèn răn dạy chúng tôi.
Thuở ấy, người lớn giáo huấn, chúng tôi đều
ngoan ngoăn nghe, chẳng dám phản kháng! Đến khi cha mẹ
chúng tôi biết chuyện, bèn đối đăi, cám ơn, cảm
kích những người khách ấy. Quư vị nói có phải
là xă hội thuở ấy rất hài ḥa, thật tốt đẹp
hay không? Trẻ nhỏ được cha mẹ trông chừng,
người trong nhà ḍm chừng, người ngoài cũng trông
chừng, trẻ nhỏ đi tới đâu cũng được
người lớn răn nhắc. Trong xă hội hiện
thời, chẳng c̣n [t́nh trạng ấy nữa], cha mẹ
không quản được trẻ nhỏ, thầy chẳng
thể quản tṛ, làm sao được nữa, hiện tượng
này đáng sợ lắm! Điều này khiến cho chúng tôi
hiểu thật sâu [v́ sao] cổ thánh tiên hiền thế gian
và xuất thế gian coi trọng giáo dục ngần ấy,
chúng tôi hiểu rơ. Con người do dạy dỗ mà trở
thành tốt đẹp, cũng do dạy dỗ mà thành xấu
xa, tùy thuộc cách dạy như thế nào! Trẻ nhỏ
hiện thời đều bị dạy hư hỏng, ai
dạy chúng nó? TV dạy, Internet dạy chúng nó, người
trong nhà mặc kệ. Hiện thời, cách dạy trẻ
nhỏ rất khả ái, rất sinh động, nhưng mười
năm, hai mươi năm sau, sẽ có phiền phức xảy
ra, lúc ấy, hối cũng chẳng kịp!
Chúng ta xem tiếp phần dưới:
“Phàm thánh tuy đồng cư thử
độ, nhi kỳ sở tác dữ thành tựu tắc huưnh
nhiên bất đồng” (Phàm và thánh tuy cùng sống trong cơi
này, nhưng việc làm và thành tựu khác biệt rất
xa). V́ sao bất đồng? Tiếp đó, sách viết: “Tại Cực Lạc tắc
đồng tận vô minh, đồng đăng Diệu
Giác” (Tại Cực Lạc th́ cùng dứt vô minh, cùng lên
Diệu Giác). Diệu Giác là đạt đến Phật
quả viên măn rốt ráo, c̣n cao hơn Đẳng Giác một
tầng. Đại chúng văng sanh cơi Đồng Cư của
thế giới Cực Lạc mỗi ngày đều học
tập, không ngừng nâng cao, muốn tiến lên địa
vị Diệu Giác, đoạn hết tập khí vô minh, trở
về cơi Thường Tịch Quang, trở về tự tánh.
Đấy là việc làm và thành tựu của họ. “Cố tri Đồng Cư Tịnh
Độ chi đồng cư, thắng ư thử gian vô
lượng ức bội dă” (nên biết sự đồng
cư trong cơi Đồng Cư Tịnh Độ thù thắng
hơn cơi này vô lượng ức lần). Đúng vậy,
chẳng thể sánh bằng!
Lại đoái nh́n cơi Đồng
Cư của chúng ta: “Hựu thử
độ chi phàm” (lại nữa, phàm phu trong cơi này), đấy
là phàm phu lục đạo, “bao
quát địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam ác thú”
(bao gồm ba đường ác địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh), đây là ba ác đạo, “nhi bỉ độ Đồng Cư tắc thượng
vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thật” (nhưng
trong Đồng Cư cơi kia, cái tên ác đạo c̣n chẳng
có, huống là có thật). Đây là điều được
giảng trong kinh Di Đà, thế giới Tây Phương c̣n
chưa nghe tới danh xưng ác đạo, lẽ đâu có
chuyện ấy? “Đắc
văng sanh giả, bất phục cánh nhập tam ác đạo,
vĩnh ly ác thú” (người được văng sanh, chẳng
đọa trong ba ác đạo nữa, vĩnh viễn ĺa đường
ác). Cho dù quư vị đới nghiệp văng sanh, hạ hạ
phẩm văng sanh sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, thậm
chí sanh vào biên địa, cũng chẳng c̣n đọa tam ác
đạo, vĩnh viễn ĺa đường ác, đó là chỗ
thù thắng của thế giới Cực Lạc. “Bất tự thử gian chúng sanh,
sanh tử hải trung, đầu xuất, đầu một,
triển chuyển ác đạo, khổ thú thời trường
dă” (Chẳng giống như chúng sanh trong cơi này, thoạt
nổi, thoạt ch́m trong biển sanh tử, xoay vần
trong ác đạo, ở măi trong nẻo khổ). Không như
thế gian này, chúng sanh trong thế gian này, lục đạo
luân hồi là biển cả sanh tử. “Đầu xuất” là giống như quư vị ở
trong biển, ngoi đầu lên hít một hơi không khí
trong lành, đó là ǵ? Tam thiện đạo, lập tức ch́m
xuống dưới. Do vậy, trong lục đạo, quư
vị nhất định phải biết, thời gian
trong thiện đạo rất ngắn, thời gian trong ác
đạo rất dài! Quư vị thấy trong thiện đạo
tạo bao nhiêu ác nghiệp, vào trong ba ác đạo tiêu sạch
những nghiệp ấy rồi quư vị mới thoát ra. Lúc
thoát ra, lại tạo ác. Thời gian thoát ra ngắn ngủi,
[thời gian] tạo tác ác nghiệp th́ nhiều, lại đọa
xuống! V́ thế, nhà của chúng sanh trong lục đạo
ở đâu? Nhà ở trong tam ác đạo, thoát [khỏi
tam ác đạo] là lữ du, là đi ngắm cảnh. Lần
này đi ngắm cảnh, gặp gỡ Phật pháp, thù thắng
khôn sánh! Nếu quư vị có thể thật sự nắm vững,
sẽ vĩnh viễn rời tam ác đạo, vĩnh viễn
vượt thoát lục đạo luân hồi, đó là đúng!
Nếu chẳng thể nắm vững cơ duyên này, nhất
định phải biết: Quư vị vẫn tiếp tục
ở trong lục đạo, vẫn phải tiếp tục
chờ đợi trong tam ác đạo, thời gian chờ
đợi vô cùng dài, khổ chẳng thể nói nổi! Thật
sự giác ngộ điều này, mới thật sự phát
Bồ Đề tâm, thật sự chịu niệm Phật,
thật sự chịu buông xuống! Trên con đường
Bồ Đề, phải dựa vào chính ḿnh, chính ḿnh chẳng
thật sự phát tâm, thật sự phát nguyện, Phật,
Bồ Tát đều chẳng giúp được. Thật sự
phát tâm, sẽ cảm động chư Phật, Bồ Tát.
Chư Phật, Bồ Tát đại từ, đại bi, t́m
đến chúng sanh hữu duyên. Hữu duyên là ǵ? Thật sự
phát tâm, phát nguyện sẽ là người hữu duyên. Nguyện
tâm ấy không dấy lên nổi, chân tâm chẳng phát ra được,
A Di Đà Phật dẫu từ bi cũng chẳng có cách nào
giúp đỡ quư vị! Ngày hôm nay đă hết thời gian
rồi, chúng ta học tới đây.
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 14 hết
[1] Trần thuyết: Dẫu vật chất
nhỏ nhất như vi trần cũng luôn nói vô thượng
diệu pháp. Đây là cảnh giới Hoa Nghiêm, trong mỗi
vi trần đều có cơi nước, trong cơi nước
có Phật thường nói kinh Hoa Nghiêm. Về sau, kinh điển
thường dùng chữ “trần sát” để diễn tả
cảnh giới Sự Sự vô ngại, trùng trùng duyên khởi.
Sát thuyết: Toàn bộ cơi nước đều thuyết
pháp. Ḥa Thượng Tuyên Hóa lại giảng “sát thuyết”
có nghĩa là nội dung giảng giải rộng lớn
không ngằn mé, nên dùng cơi nước (sát độ) để
h́nh dung sự rộng lớn của các pháp được
nói.
[2] Hiện Lượng (Pratyaksa-pramāna)
là một thuật ngữ trong Nhân Minh. Lượng có
nghĩa đo lường, cân nhắc, phán đoán. Hiểu
rộng hơn là tiêu chuẩn dùng để phán định,
suy xét. Hiện Lượng là cảm giác, chưa xen lẫn
những khái niệm, trọn chẳng bị phân biệt,
tư duy xen vào. Chẳng hạn khi mắt thấy sắc,
liền nhận biết rơ ràng, nhưng chưa suy lường
đó là vật ǵ, tên gọi là ǵ, màu sắc ra sao, h́nh dáng
thế nào, đáng ưa hay đáng ghét v.v... th́ sự nhận
biết ấy gọi là Hiện Lượng.
[3] Tỷ Lượng (Anumāna-pramāna): Sự
nhận biết do so sánh điều ǵ chưa biết với
cái đă biết.
[4] Thánh Ngôn Lượng (c̣n gọi là Chánh
Giáo Lượng, Chí Giáo Lượng), sự nhận biết
căn cứ trên thánh giáo của chư Phật, Bồ Tát.
[5] Hưng Giáo đại sư
(Kōgyō-Daishi) là ngài Giác Văm (Kakuban, 覺鑁, 1095-1143). Sư
sinh tại tỉnh Ph́ Tiền (Hizen) thuộc đảo Cửu
Châu (
[6] Tứ Hướng là bốn địa vị hướng tới Tứ Quả, gồm:
1. Dự Lưu Hướng (Srotāpatti-pratipannaka), bắt đầu kiến đạo, mới thấy được lư Tứ Thánh Đế, đắc huệ nhăn vô lậu thanh tịnh (c̣n gọi là thanh tịnh pháp nhăn), tiến thẳng về Sơ Quả (Dự Lưu Quả, Tu Đà Hoàn) chẳng đọa trong ba ác thú. Do chưa chứng quả, nhưng chắc chắn sẽ chứng, nên gọi là Hướng.
2. Nhất Lai Hướng (Sakrdāgāmi-pratipannaka): Đoạn trừ sáu phẩm đầu trong chín phẩm Tu Hoặc trong Dục Giới, nhưng chưa đoạn ba phẩm sau nên c̣n phải thác sanh lần nữa trong thiên giới.
3. Bất Hoàn Hướng (Anāgāmi-pratipannaka): Bậc thánh giả đă chứng quả Nhất Lai, sắp đoạn trừ ba phẩm cuối trong Tu Hoặc, tuy cố gắng đoạn ba phẩm cuối, vẫn chưa đoạn hết, c̣n sót một hai phẩm, chưa hoàn toàn chứng đắc Tam Quả (Bất Hoàn Quả), nên gọi là Bất Hoàn Hướng.
4. A La Hán Hướng (Arhat-pratipannaka), c̣n
gọi là Vô Học Hướng, là bậc thánh giả
đă đắc Tam Quả, tiến hướng địa
vị A La Hán, nhưng chưa chứng nhập.
Tu Hoặc nói đủ là Tu Đạo Sở
Đoạn Hoặc, tức là một danh xưng khác của
Tư Hoặc.
[7] Núi Kê Túc ở huyện
Tân Xuyên, tỉnh Vân Nam, nằm ranh giới các huyện Tân
Xuyên Đặng Xuyên, Vĩnh Thắng, Hạc Khánh, Nhị
Nguyên v.v... Ngọn cao nhất đến 3.248 mét. Do h́nh thế
của núi giống như cái chân gà nên gọi là Kê Túc.
Đúng ra, phải gọi là rặng núi v́ Kê Túc gồm có
đến 47 quả núi nhỏ họp lại. Cảnh nổi
tiếng nhất gọi là Thiên Trụ Phật Quang. Vào cuối
Hạ, sang Thu, sau khi mưa tạnh, bốn phía ngọn
Thiên Trụ có mây ráng vờn quanh giống như ngọn
núi tỏa hào quang bảy màu. Nơi này cũng có rất nhiều
chùa, tám ngôi đại tự, ba mươi bốn chùa nhỏ
hơn, sáu mươi lăm am viện, và hơn một
trăm bảy mươi tịnh thất. Tăng nhân đến
hơn năm ngàn người.
[8] Hoa Thủ Môn là một thắng cảnh
tại núi Kê Túc. Ở phía Tây Nam của tháp Lăng Nghiêm, có
một vách đá rộng hơn hai mươi mét, cao hơn
bốn mươi mét, dựng đứng như tường
thành, chính giữa có vết lơm trông như một cánh cửa
đóng kín. Cảnh quan hùng vĩ nhất là những khi
mưa to gió lớn, sấm giăng, chớp giật,
mưa tạt vào vách đá Hoa Thủ Môn trông rất ngoạn
mục, tiếng sấm bị vách núi vọng lại ầm
ĩ khiến người nghe kinh tâm động phách.